Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

Sơ Lược Đôi Nét Về Thiền

"Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong tâm. Nếu tâm thanh tịnh, trí tuệ xuất hiện thì đó chính là Phật, khỏi phải tìm ở bên ngoài..."





(Góp nhặt sỏi đá)

* Sanh tử bức nhau, có hề hấn gì. Đó là cái Dũng của người tự tại với sanh tử, của người đã chứng biết Phật tánh chẳng sanh chẳng diệt, cho nên với việc sống chết, thì “kẻ trí rõ thông, nhàn mà thôi”. 2 – Cái Dũng đứng trước cuộc đời: Trước cuộc đời, với bao nhiêu cám dỗ, câu móc về danh lợi, địa vị, tiền tài, thái độ của Thượng Sĩ là: * Ghé tai theo tâm viên ý mã, khó khỏi bị danh lợi trói vùi. * Phát lửa tam muội thiêu trừ, chứng đắc Niết Bàn sáng sạch Hoặc là: * Tham sân si cùng đấu cùng tranh * Vô số kiếp dọc ngang chín nẻo * Khéo chuyển y các căn hữu lậu * Bèn chứng nhập tam muội Chân Như Hoặc là: * Trong lòng ví không nghiêng không lệch * Mặc tình nghe ai mắng ai khi * Đem lửa đốt trời chi nhọc sức * Đáy mắt thầm soi xuống từ bi. Đây là cái Dũng mà đạo Phật nói là “tám gió thổi chẳng động”. Tám thứ gió là: được và thua, danh thơm và tiếng xấu, ca ngợi và trách mắng, hạnh phúc và đau khổ. Mạnh Tử cũng có nói: “phú quí chẳng hề làm cho dâm loạn, nghèo nàn chẳng thể làm cho đổi đời, uy vũ chẳng làm cho khuất phục”. Cho nên, Thượng Sĩ là người ở trong cuộc đời mà không bị cuộc đời ràng buộc, như đóa hoa sen trong lò lửa mà vẫn thường thanh tịnh: * Mới hay đời có Phật nơi người * Chớ lạ sen bừng trong lửa rực 3 – Cái dũng trước nỗi khổ của chúng sanh: Đó là cái Dũng của người ở tại thế gian để thức tĩnh thế gian: * Chao ! Chao ! Chao ! * Ối ! Ối ! Ối ! * Bọt trong biển cả uổng chìm nổi * Các hành vô thường, thảy thảy không * …….. * Tỉnh ! Tỉnh! Thức ! * Thức ! Tỉnh ! Tỉnh ! * Đạp đất bốn bể chớ lệch nghiêng * Nơi đây có kẻ nào tin được * Trên đỉnh Tỳ Lô bước bước yên Đó là cái Dũng của tâm từ bi, trách nhiệm với chúng sanh: * Biếng lên nẻo thánh siêu vòng bụi * Lỡ hẹn trời người, uế trược căn Đó là cái Dũng của người ở trong cuộc đời để cứu giúp người mà chẳng nhiễm ô bởi cuộc đời: * Mãnh hổ chẳng tiếc gì mồi ngon * Ngọc sáng nào ngại chi sóng gió * Sắc chánh chẳng xá gì xanh đỏ 4 – Cái Dũng trong bổn phận công dân: Như ta đã biết, Thượng Sĩ Tuệ Trung là anh ruột của Trần Hưng Đạo, ông đã trực tiếp đóng góp vào cuộc chiến đấu hai lần đánh chiếm cuộc xâm lược Nguyên Mông, và đã giúp đời Trần tạo dựng nên một thời đại đạt đến đỉnh cao về mọi mặt văn hóa, xã hội, kinh tế, quân sự không thua kém bất kỳ nước nào trên thế giới vào thời ấy.

Về già ông lại xin đi khẩn hoang lập ấp góp phần cho dân giàu nước mạnh. Nếu không thấm nhuần xâu xa Phật pháp thì không thể nào luôn luôn thoải mái, tràn đầy năng lực, luôn luôn tích cực trong mọi tình huống của đời sống như thế: * Trong lò hồng rực rỡ một bông sen * Mất ý khí lại đầy thêm ý khí * Được an tiện mặc tình ta an tiện. Đó là những đặc điểm của cái Dũng đạo Phật nơi Thượng Sĩ Tuệ Trung. Mặc dầu sống cách những Trần Thái Tông, Thượng Sĩ Tuệ Trung, Trần Nhân Tộng … hơn 700 năm, ai trong chúng ta cũng có thể có những bài học từ cuộc đời của những vị ấy, những con người mà Phật pháp đã thấm nhuần để thành xương da và máu thịt, những con người đã sống đúng thực Phật pháp và tung rải nó ra thành sức sống của dân tộc. Với những vị đó, đạo Phật không phải là cái gì viễn vông, chỉ nằm trong ý niệm, trong sách vở mà là hiện thực, cụ thể là hiển nhiển như chính cuộc đời Đối tượng của thiền quán là Sắc pháp và Tâm pháp hay thân thể và tâm thức. Sắc pháp là những pháp thuộc về vật lý, bao gồm các thể tính không biểu hiện cụ thể, cho đến các hình sắc, âm thanh, mùi vị,… mà các quan năng có thể nhận thức được. Tất cả những Sắc pháp như thế, đều có thể là đối tượng của thiền quán. Tâm pháp là những pháp thuộc về tâm lý hay tâm thức. Cảm giác, tri giác, ý chí, tư niệm; hiểu biết, phân biệt… đều là những thành phần của tâm pháp, hay tâm thức. Tất cả những yếu tố của Tâm pháp như thế, đều có thể là đối tượng của thiền quán. Thiền là phương pháp làm cho tâm ngưng lắng hết thảy mọi thứ phiền não. Và Quán là nhìn sâu vào trong lòng của đối tượng để nhận rõ tác nhân, tác duyên, bản chất cũng như tác dụng của chúng. Ở kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm này, đức Phật dạy bốn phương pháp thiền tập: Phương pháp thứ nhất: Quán niệm về thân thể. Thực tập theo phương pháp này, hành giả phải thấy rõ và làm chủ mọi động tác của thân thể. Phải biết một cách đích thực những gì đang diễn ra ở nội và ngoại cơ thể qua các hình thái đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi, các yếu tố hình thành và các trạng thái hủy diệt của cơ thể. Phương pháp thứ hai: Quán niệm về các cảm giác.

Thực tập theo phương pháp này, hành giả sử dụng mọi cảm giác làm đối tượng quán niệm. Tức là hành giả không đồng tình theo cảm giác dễ chịu, và cũng không đối kháng lại với cảm giác khó chịu, hoặc không để ý thức quán niệm bị quên lãng giữa những cảm giác không phải dễ chịu mà cũng không khó chịu. Trái lại, hành giả chỉ đưa ý thức tỉnh giác đi kèm và có mặt một cách đích thực trong các cảm giác ấy, để nhận rõ tính chất như thật của chúng. Cảm giác có thể có mặt từ nơi tâm, hoặc từ nơi thân, nhưng dù nó có mặt từ đâu đi nữa, thì hành giả thực tập theo phương pháp này, phải đưa ý thức tỉnh giác đi kèm và có mặt một cách đích thực trong các cảm giác ấy, để mọi hạt giống tham ái, sân hận và si mê trong tâm thức của hành giả không có cơ hội tùy sinh và biểu hiện lên trên mặt ý thức. Phương pháp thứ ba: Quán niệm về tâm ý. Thực tập phương pháp này, hành giả sử dụng các yếu tố tạo nên tâm ý, làm đối tượng quán niệm. Khi các yếu tố như tham, sân, si… có mặt nơi tâm ý, thì hành giả đưa ý thức tỉnh giác, ý thức chánh niệm đi kèm và có mặt một cách đích thực ở trong các yếu tố tạo nên tâm ý xấu ấy, để nhận rõ sự có mặt và tính chất nguy hại của chúng. Do hành giả có ý thức chánh niệm như vậy, nên các yếu tố tạo nên tâm ý xấu ấy, không thể nào tiếp tục hiện hữu và phát triển một cách tự do trên mặt ý thức, và đương nhiên, chúng sẽ bị hạn chế, bị dừng lại và tự khử diệt. Khi các yếu tố tốt đẹp như vô tham, vô sân, vô si, tàm, quý… có mặt nơi tâm ý, thì hành giả đưa ý thức tỉnh giác, ý thức chánh niệm đi kèm và có mặt một cách đích thực trong các yếu tố tạo nên tâm ý cao thượng, tốt đẹp ấy, để nhận rõ sự có mặt và tính chất an toàn của chúng, nhằm nuôi dưỡng và thăng tiến chúng trên mọi hoạt động của ý thức, và lẽ đương nhiên, chúng sẽ được biểu hiện ra trong mọi sinh hoạt hằng ngày, tạo nên những chất liệu tươi mát và an ổn trong cuộc sống.

 Phương pháp thứ bốn: Quán niệm về pháp. Thực tập phương pháp này, hành giả có thể sử dụng các pháp thuộc về nhân duyên như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới làm đối tượng để quán niệm. Hoặc có thể sử dụng các pháp thuộc về năm sự che khuất ở nơi tâm thức làm đối tượng quán niệm. Hoặc có thể sử dụng các pháp thuộc về giác ngộ hoặc giải thoát đang có mặt nơi tâm thức, như Bảy yếu tố giác ngộ, hay Bốn thánh đế làm đối tượng quán niệm. Nhờ thực tập quán niệm các pháp thuộc về nhân duyên hoặc các pháp thuộc về vô lậu, mà các tham dục, sân hận, si mê, chấp ngã… đều bị đoạn tận, các thiện pháp vô lậu phát sinh và lớn mạnh, biểu lộ trọn vẹn trong mọi hình thái sinh hoạt hằng ngày. Bốn phương pháp thực tập này, là căn bản của hết thảy mọi pháp môn thuộc về thiền quán. Không có hành giả Thiền tông nào mà không khởi hành đầu tiên bằng bốn phương pháp này. Thực tập bốn phương pháp này trong đời sống hằng ngày, qua mọi động tác của thân thể, qua các cảm thọ, các tri giác, các tư niệm, qua sự tiếp xúc của các căn, trần và thức từ nội pháp, đến ngoại pháp, từ tục đế đến chân đế, là hành giả đang đi trên Thánh đạo, đang tiến dần đến đời sống giải thoát, an lạc và có thể đạt được Niết-bàn ngay trong đời sống hiện tại. Bởi vậy, đức Phật dạy: “Có một con đường đưa chúng sanh đến thanh tịnh, vượt qua sự lo lắng, sợ hãi, diệt trừ khổ não, chấm dứt khóc than, thành đạt Chánh pháp, đó là Bốn lãnh vực quán niệm.” Đức Phật còn dạy: “Nếu thực tập bốn phương pháp này với tâm ý tha thiết, thuần nhất, thì buổi sáng thực tập, buổi chiều đã đạt được sự thăng tiến, hoặc buổi chiều bắt đầu thực tập, thì sáng mai đã đạt được sự thăng tiến.” Trong lịch sử Việt Nam, thời Trần có lẽ là một điểm vàng son rực rỡ nhất của Phật giáo. Thiền thời Trần như một suối nguồn tươi mát, làm nở hoa tất cả mọi mặt của đời sống. Phải chăng sức sống của thiền đã ảnh hưởng đến tâm linh con người. Phải chăng thiền đã có một sự mầu nhiệm nào đó với cuộc sống. Chúng ta thử tìm hiểu vài nét tiêu biểu về thiền thời Trần – một lối thiền được xem là đặc sắc của Việt Nam. Lịch sử đã công nhận thời Trần (TK XIII) là thời đại cực thịnh, một thời của văn hóa đạo đức, kinh tế, chính trị, nhân tâm cũng như tâm linh, đặc biệt là thiền đều đạt đến đỉnh cao. Trước thời Trần có các thiền phái nhập vào Việt Nam như thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi năm (580 TL), thiền phái Vô Ngôn Thông (820 TL), thiền phái Thảo Đường (1069 TL) và phái Lâm Tế (1218 TL). Như vậy, thiền đã có nhiều màu sắc khác nhau. Đó là tiền đề cho sự chắt lọc và xuất hiện một thiền phái thời Trần, mang tinh thần phóng khoáng về nhiều mặt. Các vị vua Trần đã liễu ngộ Phật lý ngay từ lúc còn ngồi trên ngai vàng.

Khi hoàn tất trọng trách với dân với nước, các vị chẳng tham đắm phú quý, mà tự nguyện xuất gia để sống đời giải thoát. 1. Tinh Thần Học Thiền: Trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam cho biết: “Vua đã để tâm vào giáo lý đạo Phật, tham cứu thiền tông, hết lòng tìm thầy, dốc lòng mộ đạo”. Vua Trần Thái Tông đã mến mộ thiền học từ thưở còn nhỏ, tuy muốn xuất gia nhưng không được nên vua luôn ôm ấp hoài bão chí nguyện xuất trần của mình. Ngọn lửa tâm linh luôn sáng ngời trong tâm khảm cho đến một hôm nhân đọc kinh Kim Cang tới câu “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” liền hoát nhiên tỉnh ngộ rồi viết cuốn Thiền Tông Chỉ Nam. Vua Trần Thái Tông còn nói lại sự tinh tấn trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam: “Trong vòng 10 năm, mỗi khi việc nước rảnh rỗi, Trẫm lại họp các bậc kỳ đức để tham thiền học đạo. Các kinh điển của đạo giáo không kinh nào là không nghiên cứu đến”. Sự nỗ lực học Phật cũng như học ngoại điển của vua còn được thuật lại: “Tuy một ngày trăm việc cũng nhân lúc rảnh rang, chăm công việc tiếc thì giờ học càng thăng tiến. Một chữ Đinh lo chưa biết đến, đêm canh hai còn gắng tìm xem, đã đọc sách Nho, lại xem kinh Phật”. Vua Trần Nhân Tông cũng là người hiếu học, mến mộ đạo Phật, có tinh thần nhiệt huyết trên con đường tâm linh. Một ngày kia khi nghe câu nói của Tuệ Trung Thượng Sỹ bỗng nhận được con đường vào Đạo như lời ông nói dưới đây: “Tôi biết môn phong của Thượng Sỹ cao ngất, ngày kia tôi hỏi Ngài về nguồn gốc của Tông chỉ thiền. Thượng Sỹ dạy: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.” Tôi bỗng nhận được con đường vào, bèn kính thờ Ngài làm thầy”. Pháp Loa là đệ tử của Trần Nhân Tông, cũng là người có thiện duyên với Phật pháp từ sớm, nhiệt thành với con đường học đạo, luôn luôn học hỏi Phật pháp từ các vị Hòa thượng nhưng vẫn chưa thông. Nhân đọc kinh Lăng Nghiêm đến đoạn: “Thất xứ trưng tâm, hậu khách trần dụ” (Bảy lần trình bày tâm, cuối cùng đến ví dụ khách trần), Sư nghiệm giây lâu bỗng được thể nhập.

Nhưng sự thể nhập đó vẫn chưa khai thông rốt ráo và tiếp tục nhờ nghe lời dạy của Trần Nhân Tông mà nỗ lực thiền quán đến nửa đêm, nhân thấy hoa đèn rơi mà hoát nhiên đại ngộ. Sự học thiền của Pháp Loa còn tha thiết hơn nữa, dũng mãnh hơn nữa như lời Ngài phát nguyện: “Chư Phật và Bồ-tát có những hạnh nguyện gì, con đều tha thiết học hỏi và làm theo dù chúng sinh có khen ngợi hay khinh chê, dù bố thí hay xâm đoạt, thì khi gặp mặt hay nghe tên đều xin cứu độ cho tất cả được lên bờ giác”. Cuộc đời phụng sự Đạo pháp của Pháp Loa cho ta thấy lời phát nguyện học Phật đó là đúng. Trước kia, Tuệ Trung Thượng Sỹ cũng là một người uyên thâm sở học về tất cả kinh Phật cũng như ngoại điển, sau này Huyền Quang cũng là người có học vấn cao chuyên tâm nghiên cứu Phật lý. 2. Tìm Lại Chính Mình: Học thiền, học đạo trước tiên là học kinh điển. Kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng, giúp cho người học thiền thấy được sự thật. Nhưng thực chất của thiền học chính là công việc tìm lại chính mình. Sự cần thiết của người trí là tìm lại bản tâm mình. Sự an ổn rốt ráo chỉ khi nào mình hiểu được chính mình, không thể tìm được Phật bất cứ nơi đâu mà chính là ở trong tâm mình. Khi Trần Thái Tông cảm nhận sự đời oan nghiệt muốn bỏ lên núi tu, gặp sư Viên Chứng bảo “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong tâm. Nếu tâm thanh tịnh, trí tuệ xuất hiện thì đó chính là Phật, khỏi phải tìm ở bên ngoài”. Và sau này khi Thái Tông ngộ đạo đã nói: “Nào biết Bồ-đề giác tính ai nấy viên thành; hay đâu Bát-nhã thuận căn, người người đầy đủ. Nếu biết chiếu rọi ánh sáng trở lại thì sẽ thấy tính mà thành Phật”. Trên con đường trở về với chân lý giải thoát, con người phải biết dừng lại các vọng tưởng tham cầu bên ngoài, phải lắng lòng thì an lạc mới xuất hiện, như Trần Nhân Tông nói: “Trong nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm Lắng lòng đối cảnh hỏi chi thiền”. Trong bài : Cư Trần Lạc Đạo Phú, Trần Nhân Tông viết: “Bụt ở cuông nhà Chẳng phải tìm xa Nhân khuẩy bổn Nên ta tìm Bụt Đến cốc hay Chỉn Bụt là ta”. 3. Không Hướng Bên Ngoài: Nếu quay ra bên ngoài mà tìm cầu hạnh phúc cũng như hươu khát đuổi bóng nước. Sự đời luôn biến đổi, ngược lại tâm thức thì muốn cố giữ, do đó con người thường bị đau khổ. Chính vì hiểu được sự vô thường và mộng huyễn của vạn pháp mà khi còn trên ngai vàng vua Trần Thái Tông tuyên bố: “Ta trút bỏ ngai vàng như trút bỏ chiếc giày rách”. Hạnh phúc và lạc thú có thể tìm được bên ngoài nhưng an lạc thật sự xuất hiện chỉ khi con người dừng lại dòng hướng ngoại. Hạnh phúc bên ngoài đến và đi, đằng sau nó là sự tiếc nuối và đau khổ. Chỉ khi nào con người dám coi khinh tất cả, từ bỏ tất cả mới mong có được nguồn an ổn. Nhưng trái tim phải cháy bỏng lên tình yêu chân phúc, phải say cuồng vô ngã.

Vua Trần Thái Tông đã nằm trên tột cùng danh vị, đã nếm đủ ngọt bùi cay đắng, đã một lòng vì dân vì nước, cuối cùng xác định giá trị đích thực của cuộc đời. “Chuộng công danh, lòng nhân ngã, thực ấy phàm phu Duy đạo đức, đời thanh tâm, định nên thánh trí”. Về điểm này, Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng khuyên răn các bậc đồng tu ngó thời gian vụt trôi mà lo tiến vào nẻo đạo để khỏi bị vùi dập chốn trường đời danh lợi, tình ái ràng buộc, nhận ra cái chân thật muôn đời mà tự lâu không biết; mau mau thức tỉnh kẻo uổng một kiếp người: “Thời tiết xoay vần xuân đến thu Cái già xồng xộc đã lên đầu Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng Năm tháng mang theo chất hộc sầu Nẻo khổ: vành xe lăn lóc khắp Sông yên: bọt nước mất còn đâu Trường đời ví chẳng sờ lên mũi Ngàn thuở nhân duyên chỉ bóng màu”. (Trúc Thiên dịch) 4. Thể Nhập Thiền: Rốt ráo của người tu thiền là hoàn toàn thoát khỏi ngã chấp và pháp chấp; thoát khỏi mọi ràng buộc của thân và tâm. Duy chỉ có người thực sự thể nhập thiền mới hiểu được. Người chưa thể nhập thì cứ băn khoăn tìm kiếm và hỏi mãi. Chỉ khi nào tâm dừng lại thì mọi vật mới thức tỉnh trong sáng: “Ai hay mây cuốn trời quang tạnh Hiện rõ chân trời dáng núi cao”. Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Thái Tông nói: “Ai không niệm, người ấy không sanh”. Và Ngài nói: “Tồn tại mà không biết đó mới là Phật sống vậy”. Như vậy thiền không có ý chọn một thái độ, một tư thế thiền. Tâm có ý thức hay không có ý thức sẽ không được dự phần trong thiền. Xưa có người hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ: “Thế nào là đạo?”. Thượng Sĩ đáp: “Đạo không có trong câu hỏi, câu hỏi không có trong đạo”. Câu hỏi được đặt ra, vấn đề được đặt ra là do trong lòng của chúng ta lo âu quá đổi. Chúng ta thường chạy khắp phương nguồn, xứ sở để tìm đường giải thoát, chính cuộc chạy lăng xăng ấy mà chúng ta gọi là tìm đạo. Sự thật đối với người khi tâm mình đã dừng lại và thức tỉnh trong sáng thì tất cả không thành vấn đề gì nữa. 

“Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh 

Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt 

Sanh tử xưa nay vốn tánh không 

Thân hư dối này rồi cũng diệt. 

 Lửa phỏng nước sôi thoắt mất liền 

Núi kiếm rừng đao chốc gãy hết 

Thanh Văn ngồi thiền ta không ngồi 

Bồ-tát nói pháp ta nói thực 

Chết là chết dối, sanh dối sanh 

Bốn đại vốn không nương đâu dậy 

Chớ như hươu khát đuổi bóng nước 

 Nắm Đông bắt Tây không ngớt chạy 

Pháp thân không lại cũng không qua 

Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy 

Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi 

Thấy nguyệt tìm gì ngón tay ấy 

Kẻ ngu sống chết chẳng lo âu 

Người trí rõ thông nhàn thôi vậy”. 

 Tuệ Trung Thượng Sĩ Vấn đề khổ đau hạnh phúc, sanh tử Niết-bàn chỉ là vòng nhị nguyên đối đãi. Thoát khỏi những ý niệm về nó tức được tự tại, lúc đó không cần phải tu phải chứng gì nữa. Trần Thái Tông nói trong bài Niệm Phật Luận: “Tâm tức Phật rồi, không cần tu thêm gì nữa”. Cái thường tịch tĩnh không ta không người, sống một cách hồn nhiên, tùng tâm cảm hóa theo ngoại cảnh như Trần Nhân Tông: “Bồ liễu hoa dày chim hót thưa Bóng thiền nhà vẽ cụm mây đưa Khách sang chẳng hỏi điều nhân thế Chỉ tựa lan can ngắm núi trời”.

Không lui về quá khứ, không tưởng đến tương lai, không tơ tóc vướng bận trong đương tại. Chỉ có tác động hồn nhiên, sống hồn nhiên, giản dị duy nhất trong hiện tại mà thôi: “Áo rách che mây, sáng ăn cháo Bình xưa trăng tưới, tối nấu trà”. Thiền lặng lẽ nhưng không bất động, vô niệm. Lặng lẽ mà tỉnh giác thường xuyên như thiền sư Viên Chứng nói với Trần Thái Tông: “Tỉnh lặng mà biết tức là Phật thật”. 5. Thiền Với Cuộc Sống: Nếu thiền xa lìa cuộc sống thì đó chỉ là huyễn tưởng; dẫu sao con người vẫn bước hai chân trên mặt đất. Như vậy thiền thực sự phải chính là cuộc sống này, thiền nảy hoa trong cuộc sống. Thiền là ý nghĩa đích thực của cuộc đời, của sự sống hằng ngày: “Đi cùng thiền Ngồi cùng thiền Ở giữa lò hồng một đóa sen”. Trần Thái Tông Chính vì thế thiền được phổ biến và ưa khắp từ vua quan đến dân thời Trần. Đầu não trung ương học thiền, hành thiền, luôn tỉnh táo dìu dắt đất nước vững mạnh trong sáng, nhân dân nhờ vậy được thái bình thịnh vượng. Thượng Sĩ nói: “Còn điên đảo là còn vọng kiến, khác nào đem lưới lên núi mà bắt cá. Tìm Chân như mà dứt vọng niệm, khác nào hét to để dứt tiếng vang. Bỏ phiền não mà lấy Niết bàn, như ra ngoài nắng để đón bóng”. Chỉ cần tâm thanh tịnh thì thế giới sẽ thanh tịnh. Kinh Viên Giác nói: “Tất cả đều là thật tướng, thật tánh thanh tịnh”. Trong kinh Lăng Già nói: “Lìa sanh diệt của thế gian, như hoa đốm giữa hư không. Trí không chấp có, không, mà chứng tâm đại bi”. Trần Thái Tông nói rằng: “Trong hang qu chính là lâu đài Di Lặc, chốn tối đen chính là cảnh giới Phổ Hiền…”. Chính nhờ thể nhập thiền, chính nhờ tự ngã đã mất cho nên tình thương vô ngã vị tha xuất hiện. Thiền là nguồn năng lượng lớn trong việc thực hiện thành công hoàn toàn trong mối giao tiếp - đoàn kết của nhân dân. Có thể không trực tiếp nhưng nhờ tinh thần ấy dân tộc Việt Nam mới mấy lần thắng giặc ngoại xâm Nguyên Mông.

 Các vị vua quan thời Trần đã thâm hiểu Phật lý, đã áp dụng Phật pháp vào cuộc sống với tinh thần không vụ lợi cho nên nâng đất nước lên thái bình thịnh vượng, xứng tầm huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam. Khi xong trọng trách, dù ngồi trên phú quý vinh hoa, các Ngài vẫn không tham đắm thọ hưởng, lại còn tuyên bố: “Ta có thể trút bỏ ngai vàng như trút bỏ đôi dép rách”. Đó là sự thực minh chứng cho Trần Thái Tông mấy lần bỏ cung điện mà vào trong núi. Còn Trần Nhân Tông khi đang trong triều chính, bận trăm công ngàn việc vẫn thanh nhàn như tại ngoại, hòa với thiên nhiên: “Đèn song chếch bóng sách đầy giường Đêm vắng sân thu lác đác sương Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương”. Sau khi xuất gia thì sống đời thanh đạm: “Ăn rau, ăn trái, mộng chẳng hiềm đắng Vận giấy, vận sồi, thân ngại chi đen bạc”. Dù trước khi xuất gia hay sau khi xuất gia, tư tưởng thiền của các Ngài là hành động. Hành động vẫn gắn liền với cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Thánh Tông vừa dự tiệc yến vừa bàn đạo thiền; Tuệ Trung Thượng Sĩ thì “Hòa ánh sáng của mình vào trong cuộc đời bụi bặm”. Còn Nhân Tông thì “Cư Trần Lạc Đạo” một cách ung dung: “Ở đời vui đạo cứ tùy duyên Đói đến thì ăn mệt ngủ liền Trong nhà có báu thôi tìm kiếm Đối cảnh không tâm chẳng hỏi thiền”. Thiền sư Huyền Quang thì có cuộc sống thực tại mầu nhiệm. Thiền trong Ngài như ngọn gió thổi vào khi để mặt cửa mở; hồn nhiên, vô tư lự: “Người ở trên lầu hoa dưới sân Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông Hồn nhiên người với hoa vô biệt Một đóa hoa vừa mới nở tung”. (Nguyễn Lang dịch) Nhập vào thiên nhiên, hòa với sông nước mùa thu, thưởng thức cảnh đẹp, thật là tuyệt diệu: “Mênh mông theo gió con thuyền nhỏ Thu sáng ngời xanh bóng nước cây Tiếng sáo thân chài lau lách vọng Trăng lặn lòng sông sương trắng đầy”. (Nguyễn Lang dịch) Khi buông xả hoàn toàn, con người mới trọn vẹn niềm lâng lâng khi thưởng thức: “Mưa lạnh khe núi tỉnh Ngủ mát dưới rừng thông Nhìn lại cõi nhân thế Mở mắt vẫn say nồng”. 6. Dạy Đạo Thiền: Có lẽ điểm nổi bật hơn cả của thiền thời Trần là có sự dạy và sự học; khác với các phái thiền cực đoan trước kia cho rằng thiền không thể dạy. Thực ra chân lý tuyệt đối – thiền không thể nào diễn tả cho ai hiểu được, nhưng nó vẫn được, nếu xem nó như phương tiện dẫn nhập người học thiền vào đạo.

Đứng trên quan niệm này các thiền sư thời Trần đã dùng nhiều cách như viết sách, làm thơ, hỏi đáp hay la hét để dẫn dạy đồ chúng. Trần Thái Tông nói rõ: “Những ai có mắt tinh đời, hãy sớm hồi tâm xem lại, cất mình vượt khỏi hang sống chết, dang tay xé toạc lưới ái ân. Chẳng nề trai gái, ai cũng tu, bất luận trí ngu đều có phần cả”. Trong Thiền Tông Chỉ Nam có viết: “Tấm lòng chư Phật, ở cả trong này sao không in thành sách, để chỉ dạy cho bậc hậu học?”. Cái thể của thiền thì không ai có thể chưa đến mà biết nhưng cũng có thể đem ra nói cho người khác hiểu được một phần nào của cái tướng thiền. Trần Thái Tông nói bài kệ nhắc nhở mọi người thiết tha tu học: “Dụng của chân tâm Tỉnh tỉnh lặng lặng Không đi không đến Không thêm không bớt Nay vì anh biện Rành rẽ rõ ràng”. Người tu thiền nhiều lúc cũng bị bế tắc, mịt mù, lúc đó chỉ cần có thầy khai điểm thì có thể vào được. Bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ nói lên điều đó: 

“Mịt mù học giả hướng nào dong 

Gạch ngói mài chỉ uổng phí công 

 Thôi chớ cửa người nương tựa nữa 

Anh xuân một điểm khắp trời bông”. ( Trúc Thiên dịch) 

Thiền còn dạy trực tiếp qua vấn đáp từ thầy với trò như câu chuyện sau đây của Trần Nhân Tông với đệ tử: Có vị tăng hỏi: - Thế nào là Phật? Ngài đáp: - Nhận đến như xưa lại chẳng phải. Tăng hỏi: - Thế nào là Pháp? Ngài đáp: - Nhận đến như xưa lại chẳng phải. Tăng hỏi: - Rốt ráo thế nào? Ngài đáp: Chữ bát mở toang giao phó hết Còn đâu việc nữa đáng truyền anh.

 Có lúc Điều Ngự Giác Hoàng tức Trần Nhân Tông dùng cả thủ thuật đánh và hét đối với đệ tử. Như câu hỏi: “Thế nào là một việc hướng thượng” của đệ tử và cuối cùng là đệ tử nhận gậy được hét và lui ra (câu chuyện trong Thánh Đăng Lục) Trần Nhân Tông khi đã làm tổ thứ nhất của thiền Trúc Lâm, Ngài đi khắp nơi dạy dân lành đập phá các “Dâm Từ” và thọ trì Ngũ Giới, thực hành Thập Thiện. Pháp Loa – đệ tử đầu của Giác Hoàng Điều Ngự thì cả đời tận tụy xây chùa, đúc tượng, khắc bản in kinh sách, thống kê Tăng tịch … Như vậy, thiền thời Trần dung hòa được Chân đế và Tục đế. Điều đó thể hiện rõ qua cuộc đời các vị thiền sư. Tuy vừa cố vấn triều chính nhưng vừa tham thiền học đạo không đắm trước công danh phú quí mà ngược lại buông bỏ một cách dễ dàng. Các vị áp dụng thiền vào cuộc sống, thâm nhập được thực tại thiền. Các thiền sư vận dụng điểm đầu tiên của thiền cũng là điểm cuối – phương tiện và cứu cánh là một. Thiền thời Trần vừa siêu thoát tiêu diêu, vừa thâm nhập vào cuộc sống thực tế. Nhờ thế vua quan sáng suốt, nhân dân tin yêu đoàn kết, đất nước thái bình thịnh vượng.

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites