Thứ Ba, tháng 3 12, 2013
Unknown
"Thiền định không phải là một phương tiện
giúp mình tìm thấy sự bình lặng, cũng không phải là một bát thuốc sắc để
mà uống khi gặp phải khó khăn..."
Hoàng Phong Chuyển Ngữ
Phần II
Tất nhiên là đôi khi chúng ta cũng có
thể cảm thấy không được vừa ý lắm với các kết quả mang lại hoặc cũng có
thể là hoàn toàn thất vọng sau khi nhận ra trong suốt buổi hành thiền
mình chỉ thấy hiện ra toàn là những thứ chuyện tào lao vô tích sự, chúng
liên tiếp thay nhau diễn ra trong tâm thức mình. Chủ đích của việc
luyện tập là giúp thiết lập một mối tương quan đúng thật giữa chính mình
và thực tại, thế nhưng trên thực tế thì mình lại vướng vào một cuộc
phiêu lưu bất tận! Tuy nhiên cũng nên hiểu rằng luyện tập thiền định
chính là cách giúp mình tiếp cận với thực trạng trên đây mà không bình
luận gì cả (theo dõi sự vận hành của tư duy nhưng "dửng dưng" không diễn
đạt hay phát lộ một xúc cảm nào dù đấy là vui hay buồn, chỉ quan sát
các tư duy hiện ra và biến mất đi, chúng không phải là mình, cũng không
phải là của mình).
Phép luyện tập ấy thật đơn giản và dễ thực
hiện. Ngoài sự chú tâm ra thì không có một mục đích nào khác hơn cần
phải đạt được. Nhất thiết chỉ cần mở rộng lòng mình để tiếp đón bầu
không gian biểu trưng cho sự hiện diện của mình và của thế giới mỗi khi
chúng hiện ra thế thôi.
Thế nhưng tại sao phép luyện tập ấy lại khó thực hiện đến thế?
Nguyên tắc luyện tập thiền định tuy có vẻ
đơn giản thế nhưng cũng khá khó. Thật thế, thiền định không giống như
tập thể dục mà thật ra là một phương pháp toàn vẹn giúp cải biến tất cả
những gì có thể làm phương hại đến bầu không gian sâu rộng của sự sống.
Đôi khi chúng ta cũng muốn đem ra thực hành những gì đã học được trong sách vở, thế nhưng khi bắt tay vào thì lại dễ thối chí.
Chúng ta chỉ muốn có kết quả ngay tức
khắc. Sự kiện này cũng dễ hiểu thôi, bởi vì chúng ta đều là nạn nhân của
cuộc chạy đua nhắm vào hiệu quả và xu hướng hưởng thụ tối đa, cũng như
của tình trạng thiếu kiên nhẫn đang lan tràn khắp nơi ngày nay. Thiền
định trước hết là một nghệ thuật sống, thế nhưng ngày nay thì cái nghệ
thuật ấy đã biến mất trong thế giới Tây Phương (thật ra thì nó cũng đã
biến mất trong thế giới Đông Phương khi cái thế giới này chỉ biết nhìn
vào lý tưởng và các giá trị vật chất của các xã hội Tây Phương). Thiền
định luôn đòi hỏi phải kiên nhẫn và quyết tâm.
Thiền định cắt đứt cội rễ của lòng tham
chỉ mong sao cho mọi sự xảy ra thật dễ dàng, thí dụ như khi bật đèn thì
ánh sáng phải tỏa ra ngay tức khắc. Nếu chỉ biết nhìn mọi sự theo cách
đó thì bạn sẽ chẳng bao giờ có thể trở thành một người hành thiền thành
thạo được và cũng sẽ chẳng chủ động được một thứ gì cả. Có phải mỗi ngày
khi dọn cơm thì chúng ta lại phải bày biện bát đĩa hay không? Có phải
mỗi ngày chúng ta lại phải đối đầu với đủ mọi thứ xao lãng và các lầm
lỗi của mình hay chăng? Chúng ta chỉ có thể thăng tiến trên con đường
thiền định khi nào đủ sức tự biến cải mình nhanh hơn ảnh hưởng chi phối
bởi mọi thứ hoang mang. Thật hết sức quan trọng không được xem các thứ
hoang mang ấy như là các trở ngại cần phải loại bỏ mà nên xem chúng là
những cơ hội nhằm giúp mình gia tăng gấp đôi sức mạnh của sự chú tâm
trong cuộc sống.
Thật lạ là giai đoạn đầu bao giờ cũng dễ.
Khi mới khởi sự luyện tập thì tình trạng tâm thần của mình thường chưa
đủ sáng suốt, và cũng chính vì thế nên chúng ta nhận thấy dễ dàng hơn
các hiệu quả mang lại, kể cả một sự tỉnh táo nào đó. Thế nhưng càng
luyện tập thì chúng ta lại càng thấy hiện ra các khó khăn tinh tế hơn,
do đó chúng ta cũng sẽ phải khéo léo hơn để có thể loại bỏ được chúng.
Nhờ thế chúng ta cũng sẽ biết sử dụng việc luyện tập thành thạo hơn để
bảo vệ mình trước những thứ gai góc của thực tại. Nếu nhìn theo góc cạnh
đó thì chúng ta cũng sẽ hiểu được dễ dàng tại sao thiền học Zen lại
khuyên người hành thiền phải luôn giữ "tinh thần của một người mới tu
tập".
Riêng tôi thì tôi rất thích câu chuyện sau
đây của thiền sư Shunryu Suzuki, một trong số các vị thầy lớn nhất của
thế kỷ XX (xin chú ý Shunryu Suzuki, 1904-1971, không phải là Daisetz
Teitaro Suzuki, 1870-1966, thế nhưng người ta lại thường hay nhầm lẫn
giữa hai vị này, khiến đôi khi Shunryu Suzuki phải thốt lên: "Tôi nào có
phải là vị Suzuki vĩ đại đâu, tôi chỉ là một tên bé tí"). Câu chuyện
như sau, có bốn con ngựa khác nhau, một con thật xuất sắc, một con khá
tốt, một con trung bình và một con thật tệ. Con ngựa giỏi nhất thì phóng
nước đại một cách dễ dàng. Nó đoán trước được ý nghĩ của người kỵ mã
trước khi nhìn thấy bóng của chiếc roi ngựa đưa lên. Con thứ hai thì
cũng phóng nhanh như con trước và phản ứng trước khi chiếc roi chạm vào
người nó. Con thứ ba thì chỉ phóng khi nào ngọn roi quất vào da thịt nó
và làm cho nó đau điếng. Con thứ tư thì chỉ phóng khi nào sự đau đớn bắt
đầu ăn sâu vào xương tủy của nó.
Khi nghe câu chuyện trên đây thì có lẽ tất
cả chúng ta đều mong được như con ngựa thứ nhất, hay ít ra thì cũng
phải được như con thứ hai. Thế nhưng nếu mong muốn được như thế trong
khi luyện tập thì quả chúng ta không phải là người khôn ngoan.
Đối với việc luyện tập thì con ngựa tệ
nhất lại là con ngựa xuất sắc nhất. Chính sự khiếm khuyết của bạn mới
đúng là những gì sẽ giúp bạn bước vào con đường một cách vững chắc nhất.
Thói thường những người gặp nhiều khó khăn khi luyện tập lại chính là
những người sẽ tìm thấy ý nghĩa sâu xa nhất trong việc tu tập của mình
(tác giả muốn trấn an và khuyến khích chúng ta đấy).
Dù có gặp khó khăn khi luyện tập hay trong
những lúc tìm cách để quay về với thực tại, thì cũng không nên xem đấy
là các dấu hiệu bất lợi. Quyết tâm đơn giản được ngồi xuống mặt đất này
và giữ lưng cho thật thẳng để hòa nhập với thực tại đang hiển hiện ra
mới là điều quan trọng hơn cả.
Có phải mục đích luyện tập thiền định là làm cho chúng ta lắng dịu xuống hay không?
Tại Tây Phương thiền định thường được xem
là một phép luyện tập giúp mang lại sự thư giãn, hơn nữa nhiều người còn
xem đấy là một phương pháp trị liệu nữa. Thật thế, thiền định hàm chứa
nhiều phẩm tính trị liệu thật đáng kể. Thế nhưng không phải vì thế mà có
thể bảo rằng sự thoải mái là mục đích của thiền định, mặc dù trên thực
tế thì các hiệu quả lợi ích ấy cũng có thể xảy ra. Chủ đích của thiền
định thật ra khác hơn thế rất nhiều.
Mục đích của thiền định là nhằm biến cải
toàn bộ mối tương giao giữa chúng ta và tất cả những gì mà chúng ta nhận
biết được, cảm nhận được hay suy nghĩ được (tức là cách giúp chúng ta
nắm bắt và cảm nhận được hiện thực đúng như thế, không để cho các xung
năng và tác ý trong tâm thức làm cho nó bị méo mó và biến nó thành ảo
giác).
Hành thiền không phải là cách tìm kiếm một
thể dạng cá biệt nào cả vì như thế chỉ là cách nhằm thu hẹp tác động
của nó mà thôi. Đấy là một cách tạo thêm các điều kiện để trói buộc nó,
và đấy cũng là một trong những trở ngại hàng đầu trong việc luyện tập.
Thiền định không phải là một phương tiện
giúp mình tìm thấy sự bình lặng, cũng không phải là một bát thuốc sắc để
mà uống khi gặp phải khó khăn. Mục đích của thiền định là giúp chúng ta
phát huy sự chú tâm hướng vào tất cả những gì hiển hiện ra hầu giúp
chúng ta thoát khỏi mối ràng buộc giữa chúng ta và các thứ ấy.
Việc luyện tập thiền định không nhằm vào
chủ đích làm cho tâm thức lắng xuống hoặc trở nên vô cảm trước những
trắc trở trong cuộc sống. Dù sao đi nữa thì thiền định cũng không hề là
một phương cách nhằm cắt rời chúng ta với thực tại.
Vị tổ thứ sáu của Phật Giáo Trung Quốc
(ngài Huệ Năng) sau khi nghe một vị thiền sư giảng cho đám đệ tử của
mình như sau: "Phải giữ tâm thức tĩnh lặng hầu giúp mình suy tư về sự
Tịch Tĩnh và Vắng Lặng, và nhất thiết phải luôn luôn giữ tư thế ngồi và
không được ngưng nghỉ", thì ông đã phản ứng lại như sau: "giữ tâm thức
tĩnh lặng" là một hình thức bệnh hoạn và nhất định đấy không phải là con
đường của Đức Phật.
Sau đó thì ông đã trước tác một bài thơ như sau:
"Trong khi sống, nếu chỉ biết ngồi không ngưng nghỉ,
Thì đến khi chết người ta sẽ được nghỉ, thế nhưng lại không được ngồi.
Trong cả hai trường hợp thì đấy cũng chỉ là một đống xương hôi thối!
Nào có liên quan gì đến bài học thật thiết yếu về sự hiện hữu này đâu".
Bài thơ trên đây chẳng phải là tuyệt vời
hay sao! Cốt tủy của Đạo Pháp chính là đấy. Thiền định giúp chúng ta
phát huy sự hiểu biết sâu kín nhất về bản chất của hiện thực và của
chính mình. Đức Phật tự đặt mình vào tâm điểm của thực tại hầu quán thấy
thế giới một cách minh bạch hơn.
Mặc dù thiền định là một sự dừng lại nhằm
giúp mình nhận thấy minh bạch hơn những gì là như thế, tuy nhiên các
kinh nghiệm ấy tự nó không hề là một chủ đích.
Sự đình chỉ giúp mang lại một thể dạng thư
giãn. Dừng lại đấy. Một sự yên lặng tỏa rộng. Đấy là một quá trình thật
cần thiết giúp cho sự chú tâm trở nên sắc bén hơn. Thế nhưng nếu dừng
lại đấy thì quả thật đấy không phải là con đường.
Điều quan trọng hơn cả chính là sự cảnh giác.
Chú tâm và sự cảnh giác sâu xa
Kiến thức Phật Giáo (trí tuệ) không dựa
vào các giáo điều bất di dịch như các tôn giáo khác, cũng không phải là
kết quả do sự phân tích khoa học mang lại như thường thấy trong thế giới
ngày nay. Nó cũng chẳng phải là kết quả mang lại bằng cách tổng kết các
quan điểm khác nhau. Kiến thức Phật Giáo được hình thành nhờ vào kinh
nghiệm cảm nhận của chính chúng ta bằng cách dựa vào sự chú tâm và cảnh
giác sâu xa (tác giả không dùng chữ "trí tuệ" thế nhưng đã nêu lên ý
nghĩa của thuật ngữ này thật khéo léo và đồng thời cũng không sử dụng
chữ "giác ngộ" thế nhưng cũng gián tiếp giải thích được sự giác ngộ là
gì bằng cách chỉ nêu lên thật ngắn gọn là "kiến thức Phật Giáo" được
hình thành từ kinh nghiệm cảm nhận của chính chúng ta dựa vào sự chú tâm
và cảnh giác - tức có nghĩa là nhờ vào thiền định).
Sự chú tâm là một cách hiển lộ tự nhiên là
như thế khi nó tiếp cận với một vật thể nào đó và không hề phát lộ một
sự bám víu nào. Thí dụ như tôi chú tâm vào làn gió đang luồn vào tóc tôi
và trong trí thì không nghĩ đến bất cứ thứ gì cả (tác giả là một nhà sư
đầu nhẵn thín, thí dụ này được đưa ra có lẽ là để dành riêng cho chúng
ta đấy! Nếu đầu ta nhẵn thín thế nhưng trong tâm trí thì ta lại cứ cảm
thấy gió đang luồn vào mái tóc bồng bềnh của mình thì đấy chứng tỏ là
mình đã rơi ra ngoài sự chú tâm và đang phiêu lưu ở một nơi nào khác bên
ngoài hiện thực và bên ngoài chính mình). Tôi đặt tâm thức tôi trong
một thể dạng tiếp nhận thế thôi. Cái tâm thức ấy đang tập trung và hòa
nhập vào một thể dạng thật thăng bằng của sự thanh thản. Nó không còn bị
trói buộc trong các điều kiện chi phối nó nữa. Cái tâm thức ấy của tôi
không hề tìm cách nói lên là nó thích cái này hay không thích cái kia.
Cảnh giác sâu xa là một sự hiểu biết trực
tiếp, nó không cần đến bất cứ một hình thức trung gian mang tính cách
khái niệm hay ngôn từ nào cả (khái niệm hay ngôn từ đều mang tính cách
quy ước, cảnh giác sâu xa là một sự hiểu biết trực giác vượt lên trên
mọi hình thức lý luận dựa vào khái niệm và quy ước). Nó giải thoát cho
sự quán thấy nằm bên trong thị giác, nó giải thoát cho âm thanh nằm bên
trong thính giác, nó giải thoát cho sự cảm nhận va chạm nằm bên trong
xúc giác, nó giải thoát cho sự hiểu biết nằm bên trong tri thức. Đấy
cũng là cách mà cây cổ thụ biểu trưng cho sự lầm lẫn bị đào lên tận gốc
rễ (nhìn thấy nhưng không diễn đạt, nghe thấy nhưng không diễn đạt, va
chạm vào da thịt nhưng không diễn đạt, hiểu biết nhưng không diễn đạt:
đấy là cách nhổ bỏ tận gốc rễ mọi ảo giác của hiện thực).
Theo như các bài kinh nguyên thủy cũng như
những trước tác của các vị đại sư thì trước hết ta phải phát động sự
chú tâm và từ sự chú tâm ấy sẽ phát sinh ra sự quán thấy sâu xa mang
tính cách cởi mở và sâu rộng hơn, giúp người hành thiền quán thấy một
cách thật sắc bén các kinh nghiệm cảm nhận của mình về hiện thực, và từ
đó sẽ dần dần hiểu được cái cấu trúc trọn vẹn của các kinh nghiệm ấy mà
trước đây thì thông thường người ấy không hề nhận thức được. Chú tâm
giúp mang lại sự an bình, bởi vì nó giải thoát cho tâm thức khỏi mọi thứ
dao động thường tình khiến cho nó luôn bị rơi vào tình trạng bất định
hướng.
Sự cảnh giác sâu xa phát hiện dưới hình
thức của trí thông minh và của khả năng trực giác (prajna hay bát nhã) -
đấy là một hình thức hiểu biết không phát sinh bằng cách kiến tạo mà
thoát ra từ một bầu không gian mở rộng và quen thuộc (sự cảnh giác sâu
xa không hình thành nhờ vào lý luận mà phát sinh từ sự cảm nhận của trực
giác khi tiếp xúc với bầu không gian quen thuộc của thực tại, tức có
nghĩa là nhìn vào thực tại và quán nhận được thực tại là như thế, cái
thực tại ấy thật hết sức quen thuộc với mình và không cho thấy một mảy
may nào xa lạ).
Tuy nhiên tôi lại thường nhận thấy đối với
nhiều người sự diễn tiến trên đây không xảy ra đúng theo thứ tự. Sự
cảnh giác sâu xa và sự chú tâm có thể cùng xảy đến một lúc, hoặc đôi khi
cũng xảy ra trường hợp một trong hai thể dạng giữ một vị thế lấn át
hơn.
Thiền định có phải là cách tạo ra một thể dạng trống không hay chăng ?
Nhờ vào sự tập luyện thì nhất định cũng có
có thể tạo ra một thể dạng trống không trong tâm thức được. Thế nhưng
đạt được như thế để mà làm gì?
Đức Phật không khám phá ra sự trống không,
mà thật ra là cả một trí thông minh trực giác (trí tuệ) giúp mở ra cho
chúng ta một bầu không gian rộng lớn của hiện thực. Thiền định là cách
tập cho chúng ta khám phá ra thật minh bạch cái trò vận hành của sự lầm
lẫn, hầu giúp chúng ta nhận thấy là chúng ta đang tự trói buộc mình (vào
ảo giác) như thế nào và cái không gian của sự giải thoát thì lại rạng
rỡ biết bao.
Luyện tập thiền định không phải là cách
trút bỏ tất cả những gì trong đầu mình mà đúng hơn là để giúp mình đối
đầu với thực trạng của mình trong hiện tại (tức là tình trạng nô lệ bởi
ảo giác). Thói thường chúng ta chỉ là những người dưng hoàn toàn xa lạ
đối với chính mình. Chẳng những các cảm tính và phản ứng của chúng ta
đôi khi có thể khiến cho chính chúng ta phải ngạc nhiên (không ngờ mình
lại có thể suy nghĩ hay hành động như thế được) mà còn có thể làm cho
chúng ta phải khiếp sợ nữa. Ta sống thế nhưng hình như là sự sống ấy
đang được điều khiển bởi một con quái vật ẩn náu bên trong chúng ta.
Đối với Phật Giáo thì thật ra chẳng có con
quái vật nào cả. Nói một cách chính xác hơn thì đấy cũng chẳng khác gì
như một đứa bé khiếp sợ một con ngáo ộp thế thôi. Cứ bật đèn lên thì sẽ
thấy ngay là chẳng có con thú hay người nào ẩn nấp dưới gầm giường cả.
Sự chú tâm chính là cái ánh sáng giúp cho chúng ta hết sợ.
Nơi trọng tâm của con người luôn có một
cái gì đó thật tốt (Phật tính). Chúng ta chỉ cần đón tiếp nó. Sự khám
phá ấy thật kỳ thú. Nếu con người hòa nhập được với nó thì cả đám ma quỷ
cũng sẽ mất hết khả năng gây ra những điều tệ hại. Thật ra thì cái đám
ma quỷ ấy cũng chẳng phải là gì khác hơn là các thứ tư duy trong đầu của
chính mình. Thật thế chúng nào có khác gì những bọt bong bóng đang lơ
lửng, rồi đây chúng cũng sẽ phải vỡ tan để hóa thành một bầu không gian
mở rộng. Sự giải thoát cũng chỉ là như thế.
Ngoài thiền định ra thì còn có phương cách nào khác giúp phát huy được sự chú tâm hay không?
Thiền định là con đường hoàng đạo. Chẳng
những đấy là một phép tu tập vượt xa hơn các phép tu tập khác, mà còn là
nơi hội tụ của mọi hình thức sinh hoạt. Nếu không thiền định thì chúng
ta cũng sẽ chẳng bao giờ có dịp để mà tận hưởng được hương vị của sự chú
tâm và của thực tại.
Nếu khám phá ra được nó thì trong từng
khoảnh khắc một chúng ta cũng sẽ khám phá thấy là mình có thể duy trì
thật vững chắc được sự chú tâm đó và nó sẽ giúp cho mình biết sống một
cách sâu xa hơn.
Đối với một số học phái, thì nếu muốn thực
hiện được điều ấy thì chỉ cần theo dõi trong đầu mình từng động tác
thật nhỏ trên thân xác, chẳng hạn như duỗi hay co tay, cầm một cây bút
chì, khép hay mở một cánh cửa, nâng một ly nước lên hay là đặt nó xuống.
Tuy nhiên cũng còn có nhiều phương pháp và các phép luyện tập khác có
thể giúp chúng ta quay về với thực tại.
Nếu nhất quyết bước vào con đường thiền định thì cần phải tránh các thứ trở ngại nào có thể xảy ra?
Không nên tìm cách chủ động thân xác mà chỉ cần hòa nhập với nó
Điều căn bản nhất trong phép thiền định là
phải dựa vào thân xác như một cơ sở hầu giúp mình phát động sự luyện
tập. Gồng mình thật cứng để cố bắt chước theo tư thế của một người hành
thiền lão luyện thì thật là vô tích sự! Hãy chú tâm vào những gì mà bạn
đang có - đấy chính là điểm tựa duy nhất của bạn.
Không nên cố gắng phát động sự chú tâm mà đơn giản là chỉ cần chú tâm thế thôi
Không phải là cứ gồng người lên là giải
quyết được mọi thứ khó khăn. Chỉ cần hòa nhập vào chính sự chú tâm.
Không nên ước mong thực hiện một thứ gì cả mà chỉ cần tiếp cận thật gần
với những gì đang hiển hiện ra với mình.
Không nên sử dụng thiền định để biến sự
cảm nhận của mình trở thành trống không mà chỉ nên dựa vào thiền định để
ý thức được sự cảm nhận của chính mình
Nhiều người sử dụng thiền định để tìm cách
tạo ra một thể dạng vắng lặng hầu giúp mình tự bảo vệ trước những gì
thật nghiệt ngã phát sinh từ sự cảm nhận của chính mình. Đấy chẳng khác
gì là cách biến việc luyện tập trở thành một công cụ giúp mình trốn
chạy, nhằm thoát ra khỏi thế giới và để loại bỏ các thứ xúc cảm cũng như
mọi khó khăn. Thật ra thì đấy chỉ là một thứ ngục tù kiên cố hay một
hình thức tự trấn an nào đó mà thôi và tuyệt nhiên không phải là một bầu
không gian rộng mở giúp mình tự biến cải trước những gì đang hiện hữu.
Quả đúng là việc luyện tập có thể mang lại một sự vững tin nào đó thế
nhưng nếu dựa vào đấy để mà tìm cách biến nó thành một thứ công cụ để tự
phòng vệ trước mọi sự tấn công trong cuộc sống thì quả không đúng với ý
nghĩa của thiền định.
Không nên đặt ra một mục đích để tìm cách
đạt được nó cho bằng được, hoặc là mong cầu một thứ gì đó, đấy chỉ là
những thứ chướng ngại ngăn chận mọi sự tiếp xúc với thực tại
Nếu bạn cố tìm cách đạt được bất cứ một
thứ gì thì tức khắc việc luyện tập của bạn sẽ bị lệch lạc ngay, bởi vì
bạn đã bắt đầu rơi ra bên ngoài cái sự thật trần trụi của những gì là
như thế. Chính vì lý do đó mà con đường thiền định không hề có mục đích
gì cả. Khi nào còn hướng vào một điểm đến và mong đợi sẽ đạt được điểm
ấy thì khi đó chúng ta cũng sẽ quên mất con đường mà mình đang phải đi.
Nếu giác ngộ là thực thể của thực tại thì việc mong cầu thực hiện được
sự giác ngộ sẽ là một sự lạc hướng - bởi vì trong khi tìm kiếm sự giác
ngộ thì ta sẽ không còn nghĩ đến những gì đang sẵn có ngay bên cạnh mình
(người ta thường bảo rằng con đường thiền định thật ngắn, bởi vì chính
nó đã là điểm đến, nếu hành thiền mà lại hướng vào một thứ gì khác bên
ngoài cái thể dạng trần trụi của chính mình và của hiện thực chung quanh
mình thì nhất định đấy sẽ là một sự lạc hướng hay là một cách đánh mất
con đường).
Không nên bám víu vào sự thoải mái do việc luyện tập mang lại
Thay vì phải nhìn vào các biến động trong
tâm thức đúng với cung cách hiển hiện của chúng thì chúng ta lại cứ nhắm
vào những gì sẽ mang lại sự thoải mái cho mình. Nên hiểu rằng chủ đích
cao quý nhất của thiền định là giúp chúng ta loại bỏ được thái độ chỉ
biết tìm kiếm lạc thú và xa lánh khổ đau. Thiền định chính là cách giúp
chúng ta khám phá ra cái thực tại đích thật vượt lên trên mọi sự diễn
đạt (dù đấy là thích thú hay đớn đau).
Việc luyện tập thiền định có mang lại nguy cơ khiến chúng ta tự giam mình vào với chúng ta hay không?
Thực thi thiền định lắm khi cũng giống như
là một cách tự khép mình và tự tách rời mình với thế giới và mọi người
chung quanh mình. Vậy có phải đấy là cách chỉ biết "nhìn vào cái rốn của
mình" và không cần đếm xỉa gì đến muôn ngàn chuyện khác đang xảy ra
trong thế gian này hay không?
Sự thắc mắc đó cho thấy một sự mù tịt về ý
nghĩa của con đường thiền quán. Sở dĩ sự thắc mắc ấy xảy ra là vì nền
triết học Tây Phương chủ trương một sự đối nghịch giữa hai thể dạng năng
động và bất động - sự năng động luôn được xem trọng và ngược lại thì sự
bất động lại bị khinh thường.
Sự nhận định sai lầm đó sở dĩ xảy ra là vì
cách phân biệt giữa năng động và bất động không được dựa vào các kinh
nghiệm cảm nhận của từng cá thể trong cuộc sống (chỉ tìm cách phân biệt
hai thể dạng năng động và bất động trên mặt lý thuyết và không nghĩ đến
là sự "bất động" cũng biểu trưng cho một nghị lực thật lớn, thí dụ như
thái độ "bất bạo động" đòi hỏi phải có một sức mạnh nội tâm thật lớn
vượt lên trên sự thúc đẩy của các phản ứng "bạo động"). Giữ sự yên lặng
thường cần đến rất nhiều nghị lực, nhiều hơn là cách nói ra bằng lời.
Buông thả theo sự chi phối của các thứ xung năng luôn dễ dàng hơn là
phải đương đầu với chúng (nên ghi nhớ là thiền định không mang tính cách
thụ động mà đỏi hỏi một nghị lực rất lớn).
Thiền định giúp chúng ta phát huy thể dạng
sẵn sàng để tiếp nhận. Người hành thiền nào có phải là một nhà tu khổ
hạnh chỉ biết tìm cách rút lui khỏi sự sống. Thiền định mang lại cho
chúng ta một sự cởi mở, và hơn thế nữa còn giúp chúng ta ứng xử một cách
thích đáng nhất trước mọi cảnh huống xảy ra.
Vậy chúng ta có thể tự luyện tập thiền định một mình bằng cách học hỏi từ sách vở hay không?
Chúng ta có thể bắt đầu tập luyện ngay
bằng cách dựa vào các lời chỉ dẫn trong một quyển sách đúng đắn, thế
nhưng sau một thời gian thì cũng phải tìm một người khác giúp đỡ thêm
cho mình (xin hiểu là tác giả tu tập theo Phật Giáo Tây Tạng). Sự truyền
giới là những gì thật hết sức đơn giản, cách xa hàng nghìn dặm với
những thứ ảo tưởng mang tính cách thần bí. Thế nhưng nếu không có sự
truyền giới thì sẽ khó lòng có thể đáp ứng ước vọng chân thật của người
xin thụ giới. (nhân câu phát biểu này của tác giả cũng xin mạn phép nêu
lên một gợi ý nhỏ là chữ "Mật Tông" - tiếng Hán là "Mi Zong" - là một
"sáng chế" sai lầm trong ngôn ngữ Trung Quốc nhằm chỉ định một học phái
Phật Giáo là Tan-tra Thừa hay Kim Cương Thừa. Học phái này được hình
thành vào khoảng thế kỷ thứ V tại Ấn độ và sau đó thì bành trướng sang
hầu hết các quốc gia khác tại Á Châu, do đó học phái này không nhất
thiết chỉ phát triển ở Tây Tạng để có thể đồng hóa với "Phật Giáo Tây
Tạng" hay là để gọi học phái ấy là "Mật Tông Tây Tạng". Truyền giới là
một nghi thức tu tập khá đặc thù của toàn thể học phái này và không có
gì là "bí mật" cả, đấy chỉ là một cách giúp tăng cường sức mạnh và quyết
tâm trong lòng người tu tập. Tóm lại thiết nghĩ nên gọi học phái trên
đây phát sinh từ Ấn Độ là "Tan-tra Thừa" hay "Kim Cương Thừa" thì có lẽ
đúng hơn ).
Tiếc thay thời đại của chúng ta lại có
khuynh hướng khinh thường phần nào tầm quan trọng và các nét tuyệt đẹp
của nghi thức truyền giới, thế nhưng vào một lúc nào đó thì chúng ta
cũng sẽ phải cần đến sự tương kết giữa hai con người (giữa thầy và đệ
tử), đấy là cả một nhu cầu (nhằm mang lại tính cách thiêng liêng trong
việc tu tập).
Sự truyền giới đó không phải là một sự
trói buộc nhằm giam mình trong một mối tương giao hạn hẹp với một người
khác, mà đúng hơn là để kết nối giữa người tu tập với một dòng truyền
thụ tâm linh. Những gì được truyền thụ không thuộc của ai cả, cũng không
phải là một sự sáng tạo của một người nào cả (thụ giới không có nghĩa
là nô lệ cho một dòng truyền thừa, một nghi thức hay một con người nào
cả).
Nhiều người đã sáng chế ra nhiều thứ kỹ
thuật tập luyện thật hiệu quả giúp vào việc cải biến mang tính cách cá
nhân. Thế nhưng phải hiểu rằng thiền định không mang một mục đích như
thế. Thiền định là cách giúp chúng ta đến gần với Đức Phật, với cội
nguồn giáo lý của Ngài.
Hơn nữa và cũng là một điều thật hệ trọng
là dù cho sự luyện tập có vô cùng đơn giản đi nữa thì cũng thật hết sức
cần thiết phải bàn luận với một người đã đạt được nhiều kinh nghiệm đích
thật. Chúng ta cần phải được hướng dẫn trên con đường nhằm giúp mình có
thể khám phá ra tất cả sự phong phú của nó (tức là thừa hưởng được kinh
nghiệm của một người lão luyện, tiếc thay tìm được một vị thầy chân
chính và đầy đủ khả năng để huớng dẫn mình thì quả thật là khó trong
hoàn cảnh hiện nay. Do đó nếu không tìm được một vị thầy như mong muốn
thì tốt hơn tự mình phải cố gắng thật nhiều, và thật nhiều trước đã).
Tại sao thiền định lại cần thiết cho sự sống đến thế ?
Thật sự ra trên một khía cạnh nào đó thì
chẳng có gì có thể gọi là tuyệt đối cần thiết cả và mỗi người đều có thể
chọn cho mình một cuộc sống riêng tư. Thế nhưng cũng có nhiều người,
trong số này có thể kể ra trường hợp của nhà điêu khắc Brancusi (một
điêu khắc gia người Pháp gốc Ru-ma-ni, 1876-1957, là một trong những nhà
điêu khắc lừng danh nhất trong thế kỷ XX), các người này nhất quyết xem
Phật Giáo là lẽ sống của đời họ, dù rằng họ không hề tự nhận mình là
một Phật Tử trung kiên.
Dù sao thì đối với phần đông chúng ta (tức
là những người Phật Giáo) nếu những ai không hề biết đến việc luyện tập
thiền định là gì thì quả thật hết sức khó cho họ để có thể tìm thấy
được hương vị trong những lời giáo huấn của Đức Phật (dù có hiểu được
bằng lý thuyết thật đúng đắn giáo lý Phật Giáo đi nữa thì cũng ví như
chỉ nhìn thấy một đĩa thức ăn "thơm ngon" bằng tranh vẽ hay bằng hình
chụp thế thôi. Chỉ khi nào biết tréo chân ngồi xuống để mở rộng sự cảm
nhận của mình hầu giúp mình hòa nhập với hiện thực thì khi đó cái hương
vị ngọt ngào và các ý nghĩa sâu sắc thoát ra từ những lời chỉ dạy của
Đức Phật mới có thể tỏa rộng trong tâm hồn mình được). Thật thế, mỗi
người trong chúng ta đều có những lúc có thể phát lộ được một sự chú tâm
cao độ giúp mình chợt thấy một vài kinh nghiệm cảm nhận nào đó. Các
kinh nghiệm ấy hiển hiện ra với mình và mang lại cho mình một chút thư
giãn. Thí dụ như khi ta tắm với một vòi nước hoa sen chẳng hạn, ta chú
tâm vào các tia nước đổ xuống và chảy dài trên thân thể mình. Thay vì
nghĩ đến những gì sẽ phải làm trong ngày hôm ấy thì ta cứ để cho các tia
nước mang lại sự thoải mái cho mình. Phép luyện tập thiền định thật ra
thì cũng chỉ là một phương tiện giúp chúng ta làm hiển hiện ra cái thể
dạng là như thế, một thể dạng giúp chúng ta hoàn toàn hòa nhập vào những
gì mà chúng ta đang làm với một tâm thức thanh thản và một con tim mở
rộng. Sự luyện tập ấy chẳng mang tặng cho chúng ta một thứ gì đặc biệt
cả. Nó cũng chẳng gợi lên cho chúng ta một thể dạng kỳ thú nào cả.
Thế nhưng nếu không có nó thì quả là hết
sức khó cho chúng ta bước đi một cách vững chắc trên con đường hướng về
giác ngộ. Chúng ta sẽ cứ mãi bị chi phối bởi các cảnh huống đang xảy ra.
Thiền định giúp chúng ta tiếp nhận trực tiếp được tất cả sự trong sáng
hiển hiện ra một cách đột khởi từ sự chú tâm, nhằm giúp chúng ta biết tự
trau dồi lấy mình và biến cải thể dạng mà chúng ta đang hiện có, cũng
như giúp chúng ta đối đầu với bất cứ một cảnh huống nào có thể xảy ra
với mình.
Đấy là các lý do giải thích tại sao thiền
định lại cần thiết đến thế. Nó giúp chúng ta hiểu được con đường của sự
chú tâm là gì và cách biến sự chú tâm ấy thành một con đường.
Nên luyện tập thiền định một mình hay chung với một nhóm đông?
Việc luyện tập thiền định liên quan đến
các cảm nhận mang tính cách cá nhân. Trên một khía cạnh nào đó thì đấy
là những gì thật hết sức đơn giản, cũng chẳng khác gì tắm rửa vào buổi
sáng khi thức dậy.
Đấy chẳng qua cũng tương tự như cất lời
chào nhau vào buổi sáng và sẵn sàng đón chào sự sống trước mặt. Sự hòa
nhập ấy thật đơn giản. Sau khi tắm mát xong thì cứ tréo chân lại và ngồi
lên tọa cụ (cách luyện tập một mình). Cứ để cho sự tinh khiết chuyển
động một cách tự nhiên chung quanh ta.
Dù sao thì cách luyện tập chung với một
nhóm nhiều người vẫn có thể giúp mình đi xa hơn (nhờ vào sự trợ lực).
Luyện tập chung thường giúp mình thiền định được lâu hơn so với những
lúc luyện tập một mình. Thí dụ như trong trường hợp đang luyện tập chung
với nhiều người khác và mình cảm thấy không thể tiếp tục lâu hơn được
nữa và cứ muốn đứng lên, thế nhưng nếu trông thấy các người khác vẫn còn
ngồi im thì mình cũng sẽ phải cố gắng ngồi lại. Đấy cũng là một cách nỗ
lực tập thể nhằm giúp tất cả mọi người vượt xa hơn các giới hạn đã được
định trước, tức có nghĩa là mọi người đều có thể ngồi được lâu hơn thời
gian quy định mà mình không hề hay biết.
Thật thế luyện tập thiền định không phải
là chỉ luyện tập cho riêng mình và vì mình. Chúng ta hiến dâng sự luyện
tập của mình cho người khác và đấy cũng là cách biến nó trở thành một
viên bảo châu (không nên giữ những gì mà mình thực hiện được mà nên hồi
hướng cho người khác).
Nên kéo dài một buổi luyện tập trong bao lâu?
Còn tùy vào hoàn cảnh của từng người -
rảnh rỗi nhiều hay ít hoặc có những lúc quá bận rộn vì nhiều việc xảy
đến. Có lúc tôi luyện tập thật chuyên cần và đều đặn mỗi ngày, thế nhưng
cũng có khi thì kém hơn.
Nếu thực lòng muốn luyện tập thì cũng nên
thiền định ít nhất là hai mươi phút mỗi ngày. Tôi vẫn thường khuyên các
người tu học với tôi nên luyện tập độ bốn mươi lăm phút mỗi lần. Giữ
được như thế sẽ giúp cho thân xác, hơi thở và tâm thức của mình có đủ
thời giờ để trở nên vững vàng hơn. Trong ngày hôm đó mọi sự xảy đến với
mình sẽ diễn tiến khác hẳn đi (ta sẽ có nhiều khả năng hơn để chủ động
các biến cố xảy ra và biến cải chúng trở thành tốt đẹp hơn, hay ít ra
cũng không để cho chúng chỉ huy mình qua các phản ứng tự động và máy móc
của mình). Nếu chúng ta luyện tập sự chú tâm thật đều đặn thì sự chú
tâm cũng sẽ trung thành với mình và thường xuyên nhắc nhở mình.
Trước khi khởi sự một buổi ngồi thiền thì
cũng nên định trước là mình sẽ ngồi trong bao lâu. Sau đó thì phải cố
gắng giữ đúng như thế, điều này thật quan trọng.
Tốt nhất là nên ngồi thiền vào buổi sáng
khi vừa thức dậy, tức là trước khi bắt tay vào công việc thường nhật,
đấy là lúc thuận lợi nhất. Nên tìm một chỗ yên tịnh không bị ai quấy
rầy.
Tuy nhiên nếu muốn tiến bộ nhanh hơn thì
ngoài những buổi ngồi thiền hằng ngày ra thỉnh thoảng cũng nên tham dự
các dịp ẩn cư kéo dài nhiều ngày và đặc biệt chỉ dành riêng cho việc tập
luyện thiền định. Trong các dịp như thế chúng ta sẽ có cơ hội tìm trở
lại dễ dàng hơn tâm trạng của một người hành thiền khi mới tập tành,
tương tự như được uống một ngụm nước tuôn ra từ cội nguồn của một con
suối mát.
Sau khi hành thiền xong thì phải hành xử như thế nào trong cuộc sống hằng ngày?
Hành thiền trong tư thế ngồi yên chỉ có
thể hàm chứa một ý nghĩa đích thật khi nào nó có thể mang lại cho chúng
ta một sự cảnh giác cao độ giúp chúng ta biến cải được những gì xảy ra
trong cuộc sống hằng ngày. Nói cách khác, thiền định bằng cách ngồi yên
phải đi đôi với thiền định bằng hành động. Đấy chính là cách làm phát
sinh ra "đạo đức" Phật Giáo (chuyển các kết quả thiền định mà mình gặt
hái được thành những hành động mang lại sự thân thiện, lợi ích và an vui
cho những người chung quanh).
Hành thiền bằng cách ngồi yên sẽ giúp cho
sự chú tâm trở nên linh hoạt hơn và vững vàng hơn. Nhờ đó chúng ta sẽ ý
thức được một cách minh bạch hơn từng hành động của chính mình.
Chúng ta cũng sẽ khám phá ra phẩm tính cao
độ của sự yên lặng giúp chúng ta tìm thấy sự hăng say và mối tương giao
thật sinh động giữa chúng ta và bầu không gian mở rộng. Triết gia Soren
Kierkegaard (1813-1855, là nhà thần học và triết gia người Đan Mạch,
chủ trương thuyết hiện sinh - existentialism) cho rằng: "Sự sống và cả
thế giới theo cách nhìn của chúng ta đều lâm vào một cơn bệnh thật ngặt
nghèo. Nếu như tôi là một vị bác sĩ và nếu có ai hỏi tôi nghĩ gì về con
người thì tôi sẽ bảo với người ấy rằng: "Hãy câm ngay đi! Để tôi kê cho
một toa thuốc về sự yên lặng".
Thiền định là một ngành y học thần kỳ. Nó
mang lại cho chúng ta sự yên lặng ấy, một sự yên lặng thật cần thiết cho
mỗi con người trong chúng ta.
Nhiều vị thầy khuyên chúng ta cứ mỗi giờ
thì nên dành ra một phút yên lặng. Cứ đúng mỗi giờ thì ta dừng lại và
giữ nguyên tư thế của mình vào lúc ấy, dù là đang ngồi, đang đứng hay
đang nằm. Ta cứ thản nhiên làm những gì mà mình cần phải làm trong suốt
năm mươi chín phút trước đó, thế nhưng đến cái phút sau cùng của mỗi giờ
thì nên dừng lại để thiền định. Chúng ta có thể vặn chiếc đồng đồ để
báo cho chúng ta cái phút ấy.
Khi nghe tiếng reo của chiếc đồng hồ thì
hãy nên hướng tâm thức vào hơi thở của mình. Chú tâm theo dõi hơi thở
vào và hơi thở ra.
Nào có nghĩa lý gì một phút trôi qua, thế
nhưng cũng chỉ cần một phút thôi cũng đủ để giúp chúng ta tận hưởng
những gì mang lại từ tâm thức và con tim của mình khi chúng kết hợp với
nhau để cùng hướng vào không gian đang mở rộng. (Trong trường hợp không
thể thiền định đều đặn một phút trong mỗi giờ thì cũng nên tự nhắc nhở
mình cái phút yên lặng thật cần thiết ấy khi nào cảm thấy tâm thức mình
bị dao động, bồn chồn, lo âu, tức giận, sợ hãi, hay chợt nhận thấy là
mình đang cười nói huyên thiên mà không chủ động được. Những lúc ấy hãy
nên cố gắng quay nhìn vào hơi thở của mình, theo dõi từng hơi thở vào và
từng hơi thở ra..., sau một phút thì tự nhiên các xúc cảm bấn loạn trên
đây cũng sẽ lắng bớt xuống ngay. Dù đấy không phải là một hình thức
thiền định đúng nghĩa của nó, thế nhưng cũng là một liều thuốc chữa chạy
tạm thời giúp cho "cơn đau" đang hành hạ mình nhẹ bớt đi).
Hoàng Phong Chuyển Ngữ
0 Kommentare:
Đăng nhận xét