"Chàng đã không
thiết tha lắm khi nhìn thấy hình bóng một bậc hiền nhân, mà cũng không
giận dữ lắm khi thấy một bóng hình yêu quái. Trong bóng hình yêu quái
đó, đôi khi chàng lại nhận ra một vài nét hơi quen thuộc, và lưỡi bảo
kiếm đã có thờ ơ khi có những bóng hình yêu quái xuất hiện trước kính
thần..."
HT Thích Nhất Hạnh
Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì
trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh
trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá câỵ Đêm thu mát lạnh. Cảnh vật hình
như không có gì đổi thay sau bảy năm xa cách. Cảnh vật tuy không xa lạ,
nhưng cũng không thân mật chào đón người cũ từ phương lạ trở về. Chàng
dũng sĩ dừng lại ở chân núi, nhìn lên.
Trước mặt chàng, con đường mòn lên núi
đã bị đôi cánh cửa tùng khép chặt. Chàng đưa tay cố đẩỵ Nhưng hai cánh
cửa kiên cố vẫn im lìm không lay chuyển dưới sức mạnh của đôi cánh tay
chàng. Chàng lấy làm lạ. Ngày xưa chẳng bao giờ sư phụ chàng lại cho
đóng chặt cửa lên núi như thế nàỵ Chỉ có một con đường đưa tới am sư
phụ mà thôi, nhưng bây giờ lại bị đóng chặt. Hớn hở chàng vỗ tay vào
đốc kiếm, phi thân nhảy qua, nhưng chàng không nhảy qua khỏi. Một mãnh
lực gì níu lấy thân chàng trở lại, khiến chàng không cất mình lên khỏi
hai cánh cửa tùng. Chàng rút gươm định chém rời cánh cửa, nhưng khi
chạm tới cánh cửa, lưỡi gươm văng trở lại như vừa chạm vào thép cứng.
Chàng chùn tay, đưa lưỡi gươm lên nhìn. Lưỡi thép sáng loáng dưới ánh
trăng. Cánh cửa tùng rắn quá, và hình như đã thu nhận thần lực của sư
phụ chàng, nên đã đóng kín đường mòn lại một cách hết sức vững chãi.
Chàng thở dài cho gươm vào vỏ rồi ngồi phịch xuống tấm đá lớn gần bên,
ôm đầu nghĩ ngợi. Bảy năm về trước, chàng còn nhớ rõ khi chàng xuống
núi, sư phụ chàng đã lặng lẽ nhìn chàng một hồi lâu, không nói năng gì.
Cái nhìn của Người tuy dịu dàng nhưng có lẫn đôi chút xót thương.
Chàng đã cúi đầu im lặng trước đôi mắt dịu hiền và cái nhìn bao dung
của sư phụ. Hồi lâu Người mới thong thả bảo chàng:
-"Ta không thể giữ con ở mãi bên ta.
Thế nào con cũng phải xuống núi để hành đạo, để cứu người và giúp đời.
Ta cho rằng con có thể ở lại cùng ta trong một thời gian nữa trước khi
con rời ta xuống núi. Nay con đã muốn xuống thì con cứ xuống. Nhưng con
ạ, ta mong con nhớ những điều ta dặn khi con đã đi vào cuộc sống đồng
sự và lợi hành." Rồi Người cặn kẽ dặn chàng về những điều chàng nên
tránh, và về những điều chàng nên làm. Sau hết, Người từ tốn và dịu
dàng để tay trên vai chàng:
- "Con phải nhớ những tiêu chuẩn hành
động mà ta đã truyền thọ cho con trong năm sáu năm trời học tập. Chớ
bao giờ làm một việc gì có thể gây khổ đau cho mình và cho kẻ khác,
trong hiện tại cũng như trong tương lai. Hãy tiến bước mạnh dạn trên
con đường mà con chắc có thể đưa con và mọi người về nơi giác ngộ. Nên
nhớ muôn đời những tiêu chuẩn khổ vui và mê ngộ mà hành Đạo, độ Đời.
"Thanh bảo kiếm mà ta đã trao cho con, con hãy sử dụng nó để diệt trừ
ma chướng. Hãy xem đó như lưỡi gươm trí tuệ nơi tâm con sẽ dùng để hàng
phục mê chướng và si vọng. Nhưng để giúp con, ta cho con thêm một bảo
bối này để con có thể thành tựu công quả một cách dễ dàng."
Người thong thả lấy trong tay áo ra một
chiếc kính nhỏ và đưa cho chàng: "Đây là Mê Ngộ Cảnh. Tấm kính này sẽ
giúp con biết rõ thiện ác, chính tà. Có người gọi nó là kính chiếu yêu,
bởi vì qua tấm kính này, con có thể thấy được nguyên hình của loài yêu
quái."
Chàng nhận bảo kính và cảm động đến nỗi
nói không nên lời. Tờ mờ sáng hôm sau, chàng lên bái biệt sư phụ xuống
núi. Người tiễn chàng xuống tận dòng Hổ Khê và thầy trò từ biệt nhau
trong tiếng suối róc rách chảỵ Sư phụ đặt bàn tay hiền dịu trên vai
chàng nhìn thẳng vào cặp mắt chàng. Và nhìn theo chàng dũng sĩ ra đi.
Người còn dặn theo: "Nhớ không con, nghèo khổ không thay đổi, vũ lực
không khuất phục, giàu sang không mờ ám nhé. Ta ở đây đợi ngày con mang
đạt nguyện trở về."
Chàng nhớ lại những ngày đầu tiên xuống
núi tiếp xúc với cuộc đời. Chàng đã gặp trên con đường hành đạo bao bộ
mặt khác nhau của con người, đã dùng bảo kiếm và mê ngộ cảnh của sư
phụ chàng một cách có hiệu quả. Chàng còn nhớ có một lần kia, trên con
đường hành đạo, chàng gặp một vị đạo sĩ tay cầm phất trần, đi lại gần
chàng và mời chàng về động để bàn tính công việc giúp đời. Đạo sĩ tỏ ra
rất hăng hái với việc cứu nhân độ thế và giúp ích mọi loài. Ban đầu,
chàng say sưa nghe theo lời đạo sĩ.
Nhưng trong lúc tiếp xúc với vị đạo sĩ,
chàng nhận thấy người này có vẻ khả nghi. Chàng đưa tay rút mê ngộ
cảnh ra chiếu. Trước mắt chàng, không phải là một đạo sĩ mà là một con
yêu lớn có hai nanh dài, một cặp sừng trên trán và hai con mắt xanh lè
đổ lửa. Chàng vội nhảy lui lại và rút bảo kiếm chém. Yêu quái cố sức
kháng cự, nhưng cuối cùng, chàng thắng, và yêu quái hiện nguyên hình
quỳ dưới chân chàng xin dung toàn tánh mạng. Chàng bằng lòng tha tội
nhưng buộc yêu quái phải trân trọng hứa lui về tu luyện để thoát xác
thành người mà không được trá hình đạo sĩ để lừa bịp và tìm cách nuốt
sống những kẻ khờ dại dễ tin.
Một lần khác, chàng gặp một vị đường
quan, rất có dáng dấp một bậc cha mẹ dân. Vị đường quan râu dài bạc
phơ, hứa sẽ trọng dụng chàng và đã chịu khó thức suốt một đêm để bàn
với chàng về những điều chánh trị ích quốc lợi dân. Vị đường quan đã tỏ
ra mình là một người thiết tha đến hạnh phúc muôn dân, nhưng khi đưa
mê ngộ cảnh lên, chàng hoảng hốt nhận đó là một con heo khổng lồ với
cặp mắt háu đói, thèm khát, vô cùng khủng khiếp. Chàng đứng dậy rút
gươm chém. Yêu quái bỏ chạy nhưng chàng đã nhảy ra đứng chận giữa cửa
công đường và hét bảo nó hiện nguyên hình. Con heo kinh khiếp hiện hình
quỳ dưới chân chàng cầu xin tha tội và hứa sẽ về tu luyện tinh tấn,
thoát xác biếng lười, không còn dám trá hình để rúc rỉa xương thịt
người dân vô tội.
Có một hôm, đi ngang qua chợ, chàng
thấy thiên hạ già trẻ trai gái xúm quanh ngôi hàng sách. Người đang bày
bán sách và tranh cho mọi người là một cô gái mặt hoa da phấn, trên
miệng luôn luôn sẵn có một nụ cười. Thiên hạ trầm trồ khen ngợi tranh
vẽ và thi nhau mua sách. Bên cạnh cô ta lại có một cô gái khác, cũng
mặt hoa da phấn, tay ôm đàn, miệng cất tiếng hát khiến mọi người đã mua
sách phải mê mẫn tâm thần không muốn ra khỏi cửa hàng. Thật là một
cảnh thái bình nên thơ. Chàng cũng ngây ngất đứng nghe, và cuối cùng
chàng lại gần cầm lên một bức họa. Màu sắc làm chàng choáng ngợp, nhưng
qua nội dung chàng thấy thoáng gợn trong tâm linh một ít nghi ngờ. Đưa
mê ngộ cảnh lên nhìn, chàng hốt hoảng thấy nguyên hình hai con rắn
độc, phun nọc phè phè. Chàng vội gạt mọi người ra, rút bảo kiếm, quát
lên: Nghiệt súc! đừng phun nọc độc hại người. Mọi người chạy tán loạn.
Hai con rắn độc văng mình tới. Nhưng trước thần lực của lưỡi bảo kiếm,
cuối cùng đành phải khoanh tròn dưới gối chàng van xin thứ tội. Chàng
dùng bảo kiếm cắt đứt nọc độc, đốt cháy cửa hàng và tha cho yêu súc,
buộc cả hai phải hứa trở về núi tu luyện cho thoát kiếp ngậm nọc phun
người. Cứ thế, chàng đã sử dụng bảo kiếm và mê ngộ cảnh theo đúng lời
sư phụ dặn để cứu người và giúp đời.
Chàng đã sống miệt mài với nhiệm vụ. Đã
từ lâu chàng vẫn tự cho rằng chàng là người dũng sĩ cần thiết cho cuộc
đời. Cuộc đời không thể vắng bóng chàng. Chàng đã trà trộn trong cuộc
sống, có khi thành công, nhưng cũng nhiều khi thất bại. Đối diện với
cuộc sống đầy mưu mô gian trá, nhiều lúc chàng phải uốn mình, linh động
theo hoàn cảnh để chinh phục và chiến thắng. Có lúc chàng say sưa miệt
mài trong công việc. Chàng cảm thấy thích thú khi hành động. Có khi
chàng say mê quên cả ăn cả nghỉ, vì một sự theo đuổi mà chàng cảm thấy
vì vui thích mà thực hiện hơn là ý thức rằng mình cần hoạt động để mà
phụng sự. Thời gian trôi cứ như thế cho đến bảy năm. Một hôm trong lúc
ngồi nghỉ bên một dòng sông, nhìn dòng nước lặng lẽ trôi, chàng giật
mình thấy đã từ lâu, gần hai năm nay, chàng không dùng đến mê ngộ cảnh.
Chàng không dùng, không phải là chàng quên rằng mình có mê ngộ cảnh,
mà chỉ vì chàng thấy không thích dùng. Chàng nhớ lại trước đây đã có
một thời chàng dùng mê ngộ cảnh một cách miễn cưỡng. Chàng nhớ lại
những ngày mới xuống núi ấy, chàng đã chiến đấu rất hăng hái khi thấy
nguyên hình những yêu quái xuất hiện trên mê ngộ cảnh. Chàng cũng cảm
thấy hân hoan vô hạn khi soi thấy trên mê ngộ cảnh hình dáng các bậc
hiền nhân. Nhưng trong thời gian trước đây, một cái gì khác lạ đã đến
trong tâm hồn chàng, đến lúc nào chàng không nhận rõ. Chàng đã không
thiết tha lắm khi nhìn thấy hình bóng một bậc hiền nhân, mà cũng không
giận dữ lắm khi thấy một bóng hình yêu quái. Trong bóng hình yêu quái
đó, đôi khi chàng lại nhận ra một vài nét hơi quen thuộc, và lưỡi bảo
kiếm đã có thờ ơ khi có những bóng hình yêu quái xuất hiện trước kính
thần.
Cho đến những ngày gần đây, chàng không
dùng mê ngộ cảnh nữa. Chiếc kính vẫn nằm trong túi áo chàng, nhưng đã
từ lâu không còn được sử dụng. Chàng lấy làm lạ và đã nói nhiều lần
định quay về hỏi sư phụ. Nhưng đã ba tháng qua, bận bịu những gì không
đâu, chàng chưa có thể trở về. Mãi cho đến hôm mười hai tháng tám trước
đây, đi qua một rừng mai hoa nở, thấy sắc hoa trắng như tuyết lấp lánh
dưới ánh trăng thu, nhớ đến những ngày thơ ấu bên rừng mai già học tập
dưới chân thầy, chàng mới quyết định trở về. Đường về sao chàng thấy
xa quá. Bảy ngày trèo non lặn suối mới về tới được chỗ cũ.
Nhưng đến chân núi thì trời đã tối.
Trăng cũng vừa lên và hai cánh cửa tùng cũng đã khép chặt lối mòn.
Chàng đành phải đợi. Buổi sáng, người sư đệ của chàng thế nào cũng phải
xuống suối múc nước, và như vậy sẽ mở cửa cho chàng. Trăng đã lên tới
quá đỉnh đầu, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống rừng núi âm u. Trời càng
về khuya càng lạnh. Chàng lại rút kiếm ra nhìn. Ánh trăng lại lấp lánh
trên lưỡi kiếm. Chàng lại tra kiếm vào vỏ. Trên mặt chàng thoáng nét ưu
tư sầu muộn. Chàng đứng dậỵ Trăng sáng quá. Núi rừng vẫn u tịch và
lạnh lùng. Chàng ngồi xuống phiến đá chờ đợi. Quãng đời bảy năm qua lại
trở về trong trí óc chàng. Trăng dần dần về phía núi xa. Ngàn sao lấp
lánh linh động hơn, và cuối cùng bắt đầu mờ nhạt. Phương đông đã nhuộm
dần ánh sáng mờ mờ.
Đường viền ngọn núi đã nổi dần trên
vầng sáng nhạt. Bình minh sắp về. Chàng nghe tiếng lá khô xào xạc trên
núi.Ngửng lên chàng thấy một bóng người mờ nhạt từ trên đi xuống. Chắc
hẳn là người sư đệ của chàng. Trời đang tối quá chàng nhìn không rõ,
chỉ thấy hình bóng.
Nhưng chắc chắn đó là người sư đệ, bởi
vì tay có cầm tịnh bình. Chàng đứng dậỵ Bóng người tiến xuống và khi
đến gần cánh cửa thì cũng vừa nhận ra được chàng dũng sĩ.
- "Đại huynh"
- Sư đệ! - Đại huynh về bao giờ thế ? -
Ta về lúc trăng mới lên và phải đợi cả đêm dưới nàỵ. Tại sao sư phụ
lại cho đóng bít lối lên như thế ? Người sư đệ mỉm cười đưa nhẹ tay mở
cửa. Hai cánh cửa tùng bật ra một cách dễ dàng. Bước ra nắm lấy tay
chàng và nhìn chàng tận mặt. -"Đại huynh ở một đêm giữa trời chắc lạnh
lắm. Sương phủ ướt áo thế này mà, thôi để tiểu đệ phủi bớt cho. Trước
kia đệ thường ở dưới núi hái rau nhặt củi và luôn tiện canh chừng người
lên núi. Lâu lâu mới có một người lên núi. Nếu tiểu đệ thấy ai đáng
lên hầu sư phụ thì tiểu đệ cho lên, nếu họ không đáng lên thì em lẫn
tránh để cho họ lạc đường. Sư huynh biết rằng sư phụ không bao giờ muốn
tiếp những người lên núi với tâm niệm không lành. Độ này tiểu đệ bận
tập luyện luôn mà sư phụ cũng bận ngồi tĩnh tọa trong thạch động nên
người dặn cho đệ khép cửa chắng ngang lối lên dưới này. Sư phụ có trao
phép lạ khiến cho cửa tự động mở ra khi các bậc hiền nhân đến. Nhưng
khi những kẻ phàm tục lên thì cửa cứ đóng chặt không thể nào vượt qua
được. Nhất là khi kẻ ấy có yêu khí thì đừng mong lên núi."
Chàng dũng sĩ cau mày:
"Nhưng không lẽ ta mà lại là yêu quái ? Sao cửa lại đóng chặt?"
Người sư đệ cười lớn: - "Vâng đại huynh
sao lại là yêu quái được! Đệ cũng quên đi mất là tại sao cửa lại đóng.
Nhưng bây giờ dù sao thì đại huynh cũng lên núi được rồi cơ mà, vì cửa
đã mở. Nhưng đại huynh đợi em chút nhé. Để tiểu đệ xuống suối múc nước
rồi cùng lên một thể. Hay đại huynh xuống suối với đệ cho vui. Cười
lên chứ, đại huynh giận ai mà nét mặt trông khó đăm đăm như vậy."
Hai anh em cười vang. Chàng dũng sĩ đi
theo người sư đệ xuống suối. Mặt trời vẫn chưa lên, nhưng phương đông
đã rạng. Hai người đã có thể nhìn rõ mặt nhau. Mặt suối lặng trong, in
màu hồng của rạng đông. Bóng hai người đứng song song in hình trên mặt
suối. Chàng dũng sĩ trong bộ võ phục hiên ngang, lưng đeo trường kiếm.
Người sư đệ trong y phục tiểu đồng hòa nhã, tay cầm tịnh bình. Hai
người cùng nhìn bóng mình in trên mặt nước mỉm cười. Một con bọ nước
nhảy, làm mặt nước hồng gợn nhẹ và bóng hai người rung rung theo làn
sóng nước gợn.
"Bóng chúng ta trên mặt nước đẹp quá
nhỉ! Nếu bây giờ tiểu đệ múc nước thì sóng dậy và bóng tan mất. À này
đại huynh "mê ngộ cảnh" sư phụ cho đại huynh còn giữ đó không?" Chàng
dũng sĩ cho tay vào túi trả lời:
- Còn đây
- Tại sao chúng ta không đem ra chiếu hình chúng ta xem nào.
Chàng sực nhớ là từ lâu chàng chưa
chiếu mê thử trước hình bóng mình. Chàng lấy kính thần ra, lau bụi vào
vạt áo, chiếu trên mặt nước. Hai anh em châu đầu vào mặt kính.
Nhưng bỗng cả hai người cùng hét lên
một tiếng kinh hoàng, khủng khiếp, và tiếp theo đó chàng dũng sĩ ngã
quỵ trên bờ suối bất tỉnh. Tiếng thét kinh khủng làm chấn động cả núi
rừng hoang dại. Một con nai đang uống nước phía trên dòng hoảng hốt đưa
đầu lên nhìn, ngơ ngác kinh sợ. Người sư đệ vừa trông thấy trong kính
thần, hình bóng của mình đứng bên cạnh hình bóng một con yêu to lớn với
đôi mắt tối sâu như hai miệng giếng không đáy, hai chiếc răng dài quập
sâu vào chiếc càm vuông, trên một khuôn mặt xám ngoẹt như gà cắt tiết.
Người sư đệ rùng mình dụi mắt nhìn lại,
trên bờ suối đá xanh, chàng dũng sĩ vẫn nằm ngã lăn bất tỉnh, trên mặt
vẫn còn in rõ nét kinh hoàng, đau khổ hiện hình một cách thảm hại trên
con người đã từng xông pha lăn lộn bảy năm trong cuộc đời đầy cát bụi.
Người sư đệ đến ôm lấy chàng dũng sĩ và
lấy nước suối vã vào mặt chàng. Vài phút sau, chàng tỉnh dậy, nét mặt
vô cùng bi thảm. Hình bóng trên mê ngộ cảnh hiện ra bất ngờ quá và ý
thức tự giác trong nháy mắt đã làm cho chàng ngã quỵ. Chàng đã mất hết
nghị lực, mất hết sự sống. Tứ chi chàng rời rã, chàng không thể đứng
dậy được nữa. Một chân quỵ xuống cát, người sư đệ dịu dàng nâng chàng
ngồi dậỵ Nét thiểu não và khổ đau còn in rõ trên khuôn mặt chàng.
- "Thôi, đại huynh vui lên. Chúng ta sẽ lại lên núi"
Giọng nói của người sư đệ êm như một
hơi gió thoảng, nhẹ như một tiếng thì thầm. Nhưng chàng lắc đầu một
cách thất vọng. Chàng không còn muốn sống. Đau khổ đã làm chàng thảm
não và tâm hồn chàng vừa bị tàn phá tang thương như mặt đất sau cơn
phong vũ điên cuồng. Chàng không còn dám có ý tưởng lên núi để nhìn mặt
sư phụ. Người sư đệ vuốt tóc chàng, an ủi: "Thầy thương anh lắm. Không
sao đâu, đại huynh sẽ ở mãi bên thầy (vỗ về). Đại huynh sẽ sống bên em
như những ngày xưa êm đẹp cũ (khóc). Em không ngờ bao nhiêu năm dưới
núi đã tàn hại anh đến thế."
Và người ta thấy trên con đường mòn
cheo leo lên núi, bóng người sư đệ lần từng bước dìu chàng dũng sĩ trở
lên động. Trời vẫn còn chưa sáng hẳn, bóng hai người in trên màn sương
mỏng nhẹ của núi rừng buổi sáng. Tia nắng đầu tiên soi rõ dáng điệu
thiểu não rời rã của chàng dũng sĩ bên cạnh dáng điệu diệu dàng từ hòa
của người sư đệ. Mặt trời đã nhô khỏi đỉnh núi xa.
0 Kommentare:
Đăng nhận xét