Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Nhìn Thấu Là Trí Huệ Chân Thật - Phần Cuối


"Đức Phật dạy chúng ta buông xuống vạn duyên, tức là buông xuống nỗi khổ vì bị nghiệp lực trói buộc, khiến cho trong đời sống bất luận là trong thuận cảnh hoặc nghịch cảnh, chúng ta luôn luôn giữ được thân tâm thanh tịnh..."




 Trích lục từ giảng ký của Lão Hòa Thượng Thượng Tịnh Hạ Không
Minh Trí và Mẫn Đạt chuyển ngữ
Như Hòa nhuận văn

20. Pháp sư Viên Anh có nói mấy câu rất quan trọng: “Nếu người niệm Phật kiêm tu phước huệ và có tịnh nguyện, lâm chung, tự nhiên tâm chẳng điên đảo, tâm quy hướng Tịnh Độ”. Ngài tự xưng là chủ nhân của Tam Cầu Đường, [Tam Cầu là] cầu Phước, cầu Huệ, cầu sanh Tịnh Độ. “Cầu Phước và cầu Huệ giúp cầu sanh Tịnh Độ, cao chứng thượng phẩm”. Mấy câu này chính là pháp sư Viên Anh hiện thân thuyết pháp. Cả đời Ngài chú trọng kinh Lăng Nghiêm, nhưng hành trì Di Đà. Lúc ban đầu, Ngài nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, đến cuối cùng tâm quy hướng Tịnh Độ. Gian nhà Ngài ở được gọi là Tam Cầu Đường (ngôi nhà có ba chuyện mong cầu). Phần trước của cuốn Yếu Giải Giảng Nghĩa có ảnh của Ngài, và một đôi liễn: “Cầu Phước, cầu Huệ, cầu sanh Tịnh độ”, ba điều mong cầu. Giống như trong kinh [Di Đà] đã nói: “Không thể dùng ít thiện căn, phước đức, nhân duyên để được sanh cõi ấy”, cùng một ý nghĩa.
Người niệm Phật phải kiêm tu phước huệ. Phước là gì? Huệ là gì? Chúng ta nhất định phải hiểu rõ. Tâm thanh tịnh là Phước, trong tâm chúng ta có rất nhiều vướng bận, đó không phải là phước. Do vậy, chúng ta phải biết phước báo không phải là ngũ dục, lục trần, chẳng phải là “tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ”, những thứ ấy chẳng thể nào mang theo, chỉ gây thêm rắc rối cho chúng ta, chẳng đem lại ích lợi gì cả. Do vậy, trong kinh đức Phật dạy: “Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ là năm cội rễ của địa ngục”, chẳng phải là chuyện tốt, nhất định phải giác ngộ. Phước báo là thân tâm thanh tịnh, tại sao? Được vậy thì tâm chúng ta mới không điên đảo. Tâm hiện nay không điên đảo, lúc lâm chung tâm cũng sẽ không điên đảo. Huệ là gì? Huệ là có thể nhìn thấu, Phước là có thể buông xuống. Nhìn thấu buông xuống là phước huệ. Tịnh Nguyện là có đầy đủ Tín Nguyện Hạnh, đầy đủ tam tư lương.
Chúng ta đừng thấy hai chữ Phước Huệ liền nghĩ Phước là phước báo, tiền bạc của cải nhiều là có phước báo; Huệ là thông minh, vậy thì chúng ta phải học nhiều thứ, nghĩ vậy là hoàn toàn sai lầm. Thật ra, Phước là buông xuống, buông xuống liền có phước, nhìn thấu liền có Huệ, đó là Phước Huệ thật sự. Đích thực có thể giúp chúng ta giải quyết vấn đề lớn, vấn đề lớn là vấn đề đời đời kiếp kiếp chưa từng giải quyết xong. Đời này chúng ta có thể giải quyết, do vậy, phước huệ đó không thể nghĩ bàn! Người đó sẽ được tự tại, hạnh phúc, hưởng thụ, tức là thân tâm thanh tịnh, thân tâm vô sự là người có phước huệ hạng nhất trong thế gian và xuất thế gian. Lão pháp sư Viên Anh làm gương, thị hiện cho chúng ta.
21. Lúc chúng ta niệm Phật phải nhớ rõ “tâm như Phật”, [nghĩa là] tâm của chúng ta giống như tâm Phật. Tâm Phật là tâm như thế nào? Đó là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ, giác mà không mê. Cho nên lúc chúng ta niệm Phật, tâm chúng ta phải thanh tịnh, phải bình đẳng, phải giống như tâm Phật, thân tâm và thế giới thảy đều buông xuống. Các pháp thế gian hết thảy tùy duyên là được rồi, đừng phan duyên. Vì phan duyên tâm sẽ chẳng thanh tịnh, sẽ chẳng bình đẳng. Chuyện tốt chẳng bằng không có chuyện gì xảy ra, phải ghi nhớ câu này. Chuyện tốt nhất trong thế gian là có công phu niệm Phật, thật sự có thể buông xuống hết thảy thân tâm thế giới, chắc thật niệm câu A Di Đà Phật này. Người như vậy là người làm chuyện tốt mỗi ngày, làm chuyện tốt hạng nhất. Cũng tức là buông xuống hết thảy vạn duyên, cầu sanh Tịnh Độ, chuyên niệm A Di Đà Phật, đó gọi là thật sự giác ngộ. “Nhìn thấu, buông xuống” là tu phước huệ hạng nhất. Cho nên tâm phải giống như tâm Phật, nguyện phải giống như nguyện của Phật. 22. Người thợ vá nồi, đệ tử của pháp sư Đế Nhàn niệm Phật ba năm bèn vãng sanh, tuyệt đối chẳng phải là mạng của ông ta chỉ còn ba năm. Công phu của ông thành thục, thọ mạng bỏ đi, chẳng cần nữa nên ông vãng sanh, tự tại, thong dong biết bao. Ông chưa từng đi học, chưa từng nghe kinh, chuyện gì cũng chẳng biết. Lão pháp sư Đế Nhàn chỉ dạy ông buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khoẻ rồi niệm tiếp. Lão pháp sư dạy cứ niệm riết như vậy, sau này nhất định sẽ có lợi ích. Ông cũng chẳng hỏi lợi ích gì, sư phụ dạy ông niệm như thế nào, ông bèn niệm như vậy, sốt sắng làm theo. Niệm được ba năm ông biết trước giờ mất, đứng vãng sanh. Sau khi vãng sanh, còn đứng sững ba ngày đợi sư phụ ông là pháp sư Đế Nhàn lo liệu hậu sự cho ông. Ông là người như thế nào? Thật thà, chịu nghe lời, chẳng hoài nghi, cho nên ông mới thành tựu. Chúng ta thấy đó: Thật thà, chẳng hoài nghi, nghe lời, tâm định, chẳng động tâm. Nếu trong tâm ông còn nghi hoặc, còn nhiều vọng tưởng, dục vọng rất nhiều, sẽ không thể thành tựu. Do vậy, chúng ta hãy thử nghĩ coi, niệm Phật vãng sanh quan trọng hay là tạo tác sự nghiệp trong lục đạo luân hồi này quan trọng? Chuyện nào quan trọng hơn? Thật ra, đến lúc nào chúng ta mới tới thế gian này để tạo lập sự nghiệp? Chúng ta vãng sanh Cực Lạc thế giới thành Phật xong, theo nguyện trở lại có thể làm chuyện này, lúc đó thành công rồi. Chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát có ứng, lúc đó thì được. Hiện nay, chúng ta còn là phàm phu, phiền não tập khí chưa đoạn, chúng ta phải giác ngộ, đời này chúng ta phải vãng sanh là chuyện quan trọng bậc nhất, mọi chuyện khác đều không quan trọng. Tại sao vậy? Những chuyện khác đều không thể lìa khỏi lục đạo luân hồi, chúng ta đừng làm những chuyện đó. Dù làm chuyện tốt nhất trong thế gian cũng là nghiệp luân hồi, đừng làm! Cho nên nếu chúng ta suy nghĩ thông suốt, hiểu rõ ràng rồi, chúng ta có chịu buông xuống hay không? Phải buông xuống. 23. Chúng ta là phàm phu là vì chúng ta bị nghiệp lực trói buộc. Nghiệp là gì? Thiện nghiệp và ác nghiệp. Trong thiện nghiệp, khởi tâm tham ái, bị tham ái trói buộc. Trong ác nghiệp, khởi tâm sân hận, bị tâm sân hận trói buộc. Nói cách khác, nhìn thấy sắc, nghe âm thanh, chúng ta sanh phiền não, hỷ, nộ, ái, lạc, thất tình, ngũ dục là phiền não. Chúng ta bị nghiệp trói buộc, không được tự tại, đó là phàm phu; phàm phu bị nghiệp lực trói buộc. Vì thế, đức Phật dạy chúng ta buông xuống vạn duyên, tức là buông xuống nỗi khổ vì bị nghiệp lực trói buộc, khiến cho trong đời sống bất luận là trong thuận cảnh hoặc nghịch cảnh, chúng ta luôn luôn giữ được thân tâm thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh là trong hết thảy pháp chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, cũng không khởi vọng tưởng. Tại sao vậy? Những thứ đó đều không chân thật. Do vậy, người xưa dạy chúng ta: “Ít nói một câu chuyện, niệm nhiều một câu Phật”. Những chuyện khác đều là chuyện nhảm nhí, nên niệm Phật nhiều hơn!
Niệm Phật nhiều, niệm Phật tức là tiêu nghiệp chướng, tại sao vậy? Chúng ta khởi tâm động niệm, khởi vọng tưởng là nghiệp chướng, cả ngày từ sáng tới tối nói chuyện vô ích là nghiệp chướng. Khi niệm Phật, chúng ta không khởi vọng tưởng, cũng không nói chuyện vô ích, như vậy không phải là nghiệp chướng của chúng ta đều tiêu mất hay sao? Chúng ta mỗi ngày đều cầu tiêu tai, dùng phương pháp gì? Niệm Phật chính là phương pháp tốt nhất để tiêu tai, là phương pháp tốt nhất để tiêu nghiệp chướng. Chúng ta phải biết cách dùng, phải giác ngộ, quá báo rất thù thắng! Nếu không biết cách dùng thì quả báo sẽ không thù thắng. Quả báo thù thắng hay không đều do một niệm giác hay mê của chúng ta.
24. Người có phước báo mới có thể tu học pháp môn Tịnh Độ này. Nhưng lúc chúng ta tu học lại có rất nhiều nghiệp chướng, tại sao vậy? Vì không có phước. Vì sao không có phước? Vì cứ lo chuyện bao đồng của thiên hạ, không chịu buông xuống vạn duyên, cho nên người như vậy không có phước. Người có phước báo thì tâm sẽ thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức là có phước báo; tâm không thanh tịnh là không có phước. Chẳng phải nói là chúng ta có tiền, có quyền thế là có phước, những thứ đó rỗng tuếch! Có tiền, có quyền thế, khi chết cũng không thể mang theo! Danh vọng, tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian bất quá chỉ là cho chúng ta mượn dùng vài ngày mà thôi, chẳng phải là thật. Phước báo thật sự là tâm thanh tịnh, là trí huệ không gì sánh bằng. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ.
Cho nên nói niệm Phật là pháp kỳ diệu hạng nhất, có thể tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng có lớn đến đâu, sâu đến đâu, nặng đến đâu, một câu A Di Đà Phật đều tiêu trừ hết, nhưng điều then chốt là phải giác. Người xưa thường nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Thí dụ như chúng ta vừa khởi lên một niệm sân hận, lập tức liền nhận biết: “Như vậy là ta sai rồi”, biết như vậy chính là sám hối. Khi một niệm đố kỵ khởi lên liền nhận biết và nói: “Tôi sai rồi. Tôi là một người niệm Phật, muốn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới diện kiến A Di Đà Phật, làm sao tôi có thể khởi lên ý niệm này được”. Khi ý niệm này khởi lên liền lập tức giác ngộ, đó gọi là khai ngộ, người như vậy là người giác chứ không mê. Khi chúng ta giác ngộ thì ý niệm này liền không còn nữa, liền tiêu mất, nghiệp chướng liền tiêu trừ; nếu ý niệm [đố kỵ, sân hận] này cứ tăng lên hoài, đó là không giác, đó là mê.
Nếu chúng ta muốn thật sự giác ngộ, thật sự không mê thì phải coi lợt lạt tất cả những pháp thế gian và xuất thế gian, phải buông xuống. Lý do khiến con người mê hoặc, điên đảo, không thể giác ngộ chính là vì quá coi trọng các pháp trong thế gian này, không chịu buông xuống; do vậy, những niệm mê tình tăng trưởng, không chịu giác ngộ. Do vậy có thể biết, khi chúng ta coi lợt lạt tất cả sự việc sẽ dễ giác ngộ. Khi giác ngộ liền dấy lên một câu Phật hiệu, tức là nói ý niệm thứ nhất của tôi là vọng niệm, ý niệm thứ hai liền là A Di Đà Phật, đó là chuyển nhanh chóng như câu “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Không sợ ý niệm khởi lên, ý niệm thứ hai liền giác ngộ, liền chuyển thành A Di Đà Phật. Làm cho tâm niệm A Di Đà Phật này luôn tăng trưởng, làm cho khi hết thảy vọng niệm khởi lên, ý niệm thứ hai liền là A Di Đà Phật. Nhiều lắm là khởi lên vọng niệm thứ hai liền chấm dứt. Người như vậy là người có phước, người như vậy đời này nhất định thành Phật. Người như vậy có phước đức to lớn, trí huệ to lớn, chẳng có gì cao hơn trí huệ này.
25. Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay trôi lăn trong lục đạo, chẳng có nghiệp gì chưa tạo. Nếu không có tâm tu hành, đâm ra chẳng cảm thấy có ác niệm kỳ lạ khác thường; nhưng nếu phát tâm tu hành thì ý niệm đó càng nhiều hơn (sẽ cảm thấy có nhiều ác niệm hơn). Đó là do chân vọng giao xen hiện ra, chứ không phải là lúc trước không có nên chẳng hiện ra! Lúc đó, hãy nên tưởng A Di Đà Phật hiện ra trước mặt mình, chẳng dám móng lên một tạp niệm hay vọng tưởng nào, chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu Phật. Hoặc niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm thầm. Phải từng chữ từng câu, trong tâm niệm khởi lên rõ ràng rành rẽ, miệng niệm ra tiếng rõ ràng rành rẽ, tai mình nghe tiếng mình niệm rõ ràng rành rẽ. Nếu có thể thường niệm như vậy thì hết thảy tạp niệm liền có thể tiêu mất. Khi tạp niệm khởi lên, cứ dốc hết toàn bộ tinh thần niệm Phật, chẳng để cho tạp niệm tung hoành trong tâm mình. Nếu có thể thường niệm như vậy thì ý niệm tự nhiên thanh tịnh. Khi tạp niệm vừa phát khởi giống như một người chống chọi vạn người, chẳng thể dụng tâm lơ là. Nếu không, sẽ bị nó làm chủ, mình sẽ bị hại. Nếu cố hết sức để chống chọi, nó sẽ bị ta chuyển, tức là chuyển phiền não thành Bồ Đề. Nếu quý vị có thể dùng vạn đức hồng danh của Như Lai để đối trị [vọng niệm], lâu dần tâm sẽ được thanh tịnh. Khi tâm thanh tịnh thì vẫn niệm như vậy, không thể buông lỏng, ắt nghiệp chướng tiêu trừ, trí huệ mở mang. Tâm trọn chớ nên hấp tấp vội vàng. Bất luận là ở nhà hay ở chùa, nhất định phải là kính trên, nhường dưới, nhẫn điều người khác không thể nhẫn, làm điều người khác không thể làm; giúp đỡ người ta, thành toàn cho kẻ khác. Khi tịnh tọa thường nghĩ tới lỗi của mình, khi trò chuyện đừng nói tới thị phi của người khác. Đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, từ sáng tới tối, từ tối tới sáng niệm câu Phật hiệu đừng cho gián đoạn, hoặc niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm thầm. Trừ việc niệm Phật ra, chẳng khởi ý niệm khác. Nếu vọng niệm vừa khởi, liền diệt trừ nó. Thường khởi tâm xấu hổ, thường khởi tâm sám hối. Dù có tu trì, cứ cảm thấy công phu của mình còn rất kém, chẳng tự khoa trương. Chỉ bận tâm chuyện của mình, không lo chuyện của người khác. Chỉ nhìn vào mặt tốt, chẳng xét tới mặt xấu. Coi hết thảy mọi người đều là Bồ Tát, chỉ có mình là phàm phu. Nếu quý vị có thể y theo lời tôi nói mà làm theo, chắc chắn sẽ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. (lời dạy của Ấn Quang đại sư).
26. Nếu khi niệm Phật, tâm khó quy nhất, hãy nên nhiếp tâm khẩn thiết niệm sẽ có thể quy nhất. Pháp nhiếp tâm không gì chẳng bắt đầu từ chí thành khẩn thiết. Nếu tâm không chí thành, muốn nhiếp rất khó. Đã chí thành rồi mà còn chưa thuần nhất, hãy nên nhiếp nhĩ căn và lắng nghe. Bất luận niệm ra tiếng hay niệm thầm đều phải niệm từ tâm khởi, âm thanh niệm từ miệng phát ra rồi trở vào tai. Niệm thầm tuy không nhép miệng ra tiếng, nhưng trong ý niệm cũng có tướng miệng niệm. Tâm và miệng niệm cho thật rõ ràng, tai nghe thật rõ ràng, nhiếp tâm như vậy, vọng niệm tự dứt. Nếu vọng niệm vẫn trào dâng chẳng dứt, nên dùng pháp thập niệm ghi số, dùng toàn thể tâm lực dồn sức vào một câu Phật hiệu này, tuy muốn khởi vọng, nhưng sức của nó cũng sẽ yếu bớt. Đó là diệu pháp rốt ráo để nhiếp tâm niệm Phật. Chư vị hoằng dương Tịnh Độ thời xưa chưa đề ra là vì người đời xưa căn tánh bén nhạy, chưa cần đến pháp này cũng có thể nhiếp tâm quy nhất. Do vì Quang (“Quang” là lời đại sư Ấn Quang tự xưng) khó chế phục tâm, nên mới biết sự mầu nhiệm của pháp này. Quý vị nên sử dụng lâu ngày sẽ biết lợi ích của nó, xin chia sẻ cùng những người độn căn đời sau, để cho vạn người tu vạn người vãng sanh vậy.
Pháp thập niệm ký số là khi niệm Phật, niệm từ câu thứ nhất tới câu thứ mười phải niệm cho thật rõ ràng, phải ghi nhớ từng câu cho rõ ràng. Niệm tới câu thứ mười xong, bắt đầu đếm trở lại từ câu thứ nhất, chứ đừng niệm tiếp tới hai mươi, ba mươi. Vừa niệm vừa ghi nhớ số, đừng lần chuỗi, chỉ dùng tâm ghi nhớ số câu mình niệm. Nếu nhớ mười câu khó quá, có thể chia thành hai đoạn: từ một đến năm và từ sáu đến mười. Nếu vẫn thấy khó thì nên chia thành ba đoạn: từ một đến ba, từ bốn đến sáu, từ bảy đến mười. Niệm cho rõ ràng, ghi nhớ số rõ ràng, nghe tiếng mình niệm rõ ràng, vọng niệm sẽ chẳng xen vào được, niệm lâu dần sẽ được nhất tâm bất loạn.
Nên biết pháp thập niệm này so với pháp niệm mười hơi buổi sáng và mười hơi buổi tối giống nhau ở chỗ cả hai đều nhiếp tâm dứt vọng niệm, nhưng cách dụng công hoàn toàn khác nhau. Pháp niệm mười hơi sáng tối là niệm hết một hơi kể là một niệm, bất luận trong một hơi đó niệm được bao nhiêu Phật hiệu. Còn pháp thập niệm ký số này tính một câu Phật hiệu là một niệm. Pháp niệm mười hơi là chỉ niệm mười hơi mà thôi, đừng niệm tới hai chục, ba chục hơi sẽ tổn khí và thành bịnh. Còn trong pháp thập niệm ký số này, niệm một câu Phật hiệu, tâm ghi nhớ một câu; niệm mười câu Phật hiệu, tâm mình biết đã niệm mười câu. Từ một tới mười, dù cho một ngày niệm tới cả vạn câu cũng phải đếm số, đếm số từ một tới mười như vậy. Không chỉ có thể dứt trừ vọng niệm, lại còn có thể dưỡng thần. Niệm nhanh hay chậm đều được, từ sáng tới tối khi nào niệm cũng được. So ra, lợi ích hơn cách niệm lần chuỗi rất nhiều. Niệm lần chuỗi mệt thân, động trí, còn niệm ghi số này thân khỏe, tâm an. Khi làm việc khó ghi nhớ số thì nên khẩn thiết niệm và không đếm số. Khi làm việc xong, tiếp tục niệm theo cách ký số. Cứ tiếp tục niệm theo cách ký số, chuyên chú vào câu Phật hiệu. Đại Thế Chí Bồ Tát dạy “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, được Tam-ma-địa, đó là đệ nhất”. Căn tánh bén nhạy thì không bàn tới, còn những người độn căn như tôi nếu không dùng pháp niệm Phật ký số này rất khó đạt đến mức “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, quá khó, quá khó! Lại nên biết pháp nhiếp tâm niệm Phật này là pháp chẳng thể nghĩ bàn, vừa cạn, vừa sâu, vừa nhỏ, vừa lớn. Hãy nên tin lời Phật dạy, đừng vì mình nghĩ khác mà sanh nghi ngờ, đến nỗi thiện căn nhiều đời bị tổn hại, chẳng thể gặt hái được lợi ích rốt ráo của sự niệm Phật, rất đáng tiếc thay! Niệm Phật lần chuỗi chỉ thích hợp khi đứng hoặc đi kinh hành. Còn lúc tịnh tọa dưỡng thần nếu lẫn chuỗi thì tay phải động, thần trí khó an định, lâu ngày sẽ sanh bịnh. Pháp thập niệm ký số này đi, đứng, nằm, ngồi đều dùng được.




[1] Bát Tự còn gọi là Tứ Trụ hoặc Tử Bình, là một cách đoán vận mạng dựa trên Thiên Can và Địa Chi của năm, tháng, ngày, giờ sanh, đem phối hợp Ngũ Hành Âm Dương tương sanh, tương khắc để luận đoán. Quan niệm này đã có từ rất lâu đời, được bổ sung và hệ thống hóa bởi Lý Hư Trung vào đời Đường và Từ Tử Bình vào đời Ngũ Đại. Người có công hệ thống hóa cũng như bổ sung lý luận thấu đáo nhất là Từ Tử Bình nên môn này được gọi là Tử Bình Bát Tự từ đó.

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites