"Yêu hay ghét đều thuộc về Tình cảm.
Khi yêu thì ta muốn bám giữ, chiếm hữu; khi ghét thì ta muốn xua đuổi,
tiêu diệt. Từ đó trong tâm sinh ra đủ loại tình cảm xung đột, phiền não..."
Thích Trí Siêu
5. Phiền não
1/ Đi tìm phiền não
Tham, sân, si được xem là ba phiền
não lớn nhất của chúng sinh. Trong các sách phổ thông thường nêu ra 10
thứ phiền não, đó là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà
kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. Tuy nhiên phiền não còn được chia ra nhiều
loại tùy theo Kinh Luận khác nhau.
Phiền não được dịch từ Kilesa
(pali) hoặc Klesa (sanskrit), có nghĩa là những tính bất thiện
(akusala), theo Thanh Tịnh Đạo luận gồm có 10[8]:
tham (lobha), sân (dosa), si (moha), mạn (mana), tà kiến (ditthi), nghi
(vicikiccha), hôn trầm (thina), trạo cử (uddhacca), vô tàm (ahirika), vô
quí (anottappa).
Ngoài chữ phiền não, ta còn có chữ
nội kết hay kiết sử (samyojana) cũng gồm có 10: thân kiến
(sakkaya-ditthi), nghi (vicikiccha), giới cấm thủ (silabbata-paramasa),
tham dục (kama-raga), sân hận (vyapada), tham sắc (rupa-raga), tham vô
sắc (arupa-raga), mạn (mana), trạo cử (uddhacca), vô minh (avijja). Gọi
là kiết sử vì các tánh xấu này trói buộc sai sử ta trong sinh tử, gọi là
nội kết vì nó kết tụ lại trong tâm hay trong con người của ta.
Trong 51 tâm sở của Duy Thức Học[9]
có nói về 6 căn bản phiền não (mulaklesa) và 20 tùy phiền não
(upaklesa).
Sáu căn bản phiền não: tham, sân,
si, mạn, nghi, ác kiến.
Hai mươi tùy phiền não: phẫn, hận,
phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quí, trạo cử, hôn
trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.
Theo Câu Xá Luận
(Abhidharmakosasastra), do ngài Thế Thân (Vasubhandhu) trước tác khi còn
theo Tiểu Thừa[10],
gồm có 46 tâm sở, trong đó có[11]:
Sáu căn bản phiền não: vô minh,
phóng dật, giải đãi, bất tín, hôn trầm, trạo hối.
Hai đại bất thiện: vô tàm, vô quí.
Mười tiểu phiền não: phẫn, hận,
phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu.
Trên đây tạm gọi là đi tìm phiền
não trong Kinh Luận. Ta thấy sự phân chia và sắp xếp các phiền não không
giống nhau, nó tùy thuộc vào quan điểm của các luận sư thời xưa, và tùy
theo giáo lý Nguyên Thủy hay Đại Thừa.
Ngoài ra có vài tâm sở rất quen
thuộc của đời sống hàng ngày mà Duy Thức Học đã bỏ quên như:
-
từ, bi, hỷ, lạc: có thể thêm vào trong 11 tâm sở thiện.
- ái
(yêu), ố (ghét), ai (buồn), ưu (lo), khủng (sợ): có thể thêm vào 20 tùy
phiền não.
Phiền não là một danh từ đặc
biệt của đạo Phật và trở thành quen thuộc đối với người Phật tử, nhưng
khi muốn phân tách đó là gì thì không phải chuyện dễ cho những ai không
có khái niệm về tâm lý học Phật giáo như Duy Thức hoặc A Tỳ Đàm. Qua vài
định nghĩa của Kinh Luận thì phiền não là những tâm sở bất thiện, thuộc
hành uẩn, nhưng đối với người bình thường như bạn và tôi thì phiền não
được hiểu là những cảm giác buồn bực, khó chịu, bất an, lo sợ, ganh
ghét, chán nản, bất mãn, v.v... thuộc thọ uẩn. Đứng trên danh-sắc
(nama-rupa) hay thân tâm thì hành uẩn và thọ uẩn đều thuộc về danh hay
tâm, nhưng trên tác dụng thì hai cái có sự khác biệt.
Bình thường chúng ta nói tâm
tham, tâm sân, và xem tham, sân là hai phiền não thuộc về tâm, điều này
cũng đúng. Nhưng nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy là do Ý nghĩ gì mới khiến lòng
tham nổi lên, Ý nghĩ gì mới khiến lòng sân nổi lên. Tham và sân không
thể tự nhiên khởi lên được. Chữ tâm (citta) theo tiếng Hán có nghĩa là
tim hay lòng và nhiều khi nó cũng được hiểu là Ý. Do đó tâm thường mang
hai nghĩa: Ý và Tình (tâm ý và tâm tình). Tim hay lòng chính là Tình.
Từ sự phân tách trên, tôi xếp
những ý nghĩ (hay tư tưởng) bất thiện vào Ý, và những cảm giác bất thiện
(tức phiền não) vào Tình. Bởi vì tôi nghĩ xấu anh Ba, cho rằng anh nói
xỏ và chửi xéo tôi nên tôi mới nổi giận. Mỗi khi Ý có những ý nghĩ bất
thiện thì đương nhiên làm phát sinh ra cảm giác (Tình) buồn phiền. Do
đây tôi xem phiền não thuộc về Tình, còn nguyên nhân gây ra phiền não
thuộc về Ý.
2/ Phiền não từ đâu đến?
Mỗi khi bị phiền não, khổ đau,
chúng ta có thói quen đổ lỗi cho người và sự vật bên ngoài. Tôi[12]
buồn khổ vì người đời ác độc, tham lam, ích kỷ! Chủ đuổi tôi, vợ con hất
hủi, bạn bè khinh chê, v.v... Tôi vô tội, đâu có làm gì ác! Chính những
người khác làm tôi khổ. Tôi chỉ là một nạn nhân đáng thương xót!
Sau khi học Đạo, tôi hiểu được
mọi khổ đau xảy đến đều do mình tạo chứ không phải tại người khác. Vì
không biết cách sống, không biết kiểm soát ba nghiệp (thân, khẩu, ý) nên
tôi đã làm những hành động đưa đến khổ đau. Trong ba nghiệp thì Ý dẫn
đầu. Kinh Pháp Cú[13]
(Dhammapada), phẩm Song Yếu (Yamaka Vagga) có nói:
Ý
dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bám theo sau
Như xe, chân vật kéo.
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bám theo sau
Như xe, chân vật kéo.
Ý
dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng, không rời hình.
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng, không rời hình.
Tại
vô minh hay ái dục?
Trong Kinh Bảo Tích (Ratnakuta)
có kể một ví dụ: một người cầm cục gạch ném vào con chó. Bị trúng gạch
đau quá, con chó liền rượt theo cục gạch sủa tức tối. Con chó không biết
thủ phạm làm cho nó đau không phải là cục gạch mà là người ném gạch.
Cũng vậy cái làm cho ta đau khổ không phải sự vật bên ngoài mà là sự vô
minh của ta.
Vô minh có nghĩa là không sáng
suốt, không hiểu biết. Nhưng không hiểu biết cái gì?
Trong kinh dạy đó là sự không
thấu hiểu về tính cách vô thường, vô ngã và duyên sinh của sự vật. Do
không hiểu nên mới tham đắm, ưa thích và vì vậy nên bị trói buộc.
Ở đây tôi đi xa hơn một chút và
hỏi tiếp là Ai vô minh hay cái gì không hiểu biết? Đức Phật dạy Vô Ngã
mà tại sao tôi cứ hỏi Ai hoài?
Con người được cấu tạo bởi năm
uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), nói gọn hơn là danh sắc hay thân tâm.
Thân thể có hình sắc, còn tâm chỉ có tên gọi (danh). Theo Duy Thức Học,
tâm gồm có tám thức, trong đó Ý thức được xem là chủ nhân tác nghiệp. Do
đó nếu hỏi Ai vô minh thì ta có thể trả lời là Ý vô minh. Ở đây muốn đơn
giản hóa vấn đề mà nói như vậy chứ sự thật phức tạp hơn nhiều. Ý thức
không thể độc lập tự tung tự tác mà phải cộng tác với 51 tâm sở và những
chủng tử hiện hành từ A Lại Gia Thức.
Trở lại câu hỏi đau khổ tại vô
minh hay tại ái dục? Ta có thể đáp là: tại vì Ý vô minh nên mới
sinh ra ái dục dẫn đến khổ đau. Trong mười hai nhân duyên, vô
minh được xếp hàng đầu và ái đứng hàng thứ tám.
Vô minh
Muốn định nghĩa vô minh (avijja
hay avidya) là gì không phải chuyện dễ. Vì mỗi truyền thống, mỗi trường
phái đều có sự định nghĩa riêng.
Thí dụ: Theo Nguyên Thủy, vô
minh là không biết luật nhân quả, Tứ Đế, 12 nhân duyên.
Theo Đại Thừa, vô minh là
không nhận ra được thật tánh của các pháp.
Theo Thiền tông, vô minh là
không biết ông chủ, bản lai diện mục, chân tâm.
Theo Kinh Kim Cang, chấp
vào sắc tướng âm thanh là vô minh.
Theo Kinh Lăng Nghiêm, bất
giác không ngộ được bản tâm chân không diệu hữu là vô minh.
Theo Kinh Bát Nhã, không
biết Tánh Không của các pháp là vô minh.
Theo Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn,
không nhận ra được Phật tánh là vô minh.
Theo Duy Thức, chấp
các pháp hiện hữu ngoài thức là vô minh, v.v...
Từ những định nghĩa khác nhau ở
trên, ta có thể rút tỉa đại ý như sau:
Vô minh là không biết
luật duyên sinh, không nhận ra thật tánh của các pháp, nên
chấp vào sắc tướng và các pháp hiện hữu bên ngoài.
Cái gì không biết? Chính cái Ý
không biết nên gọi là vô minh. Vì vô minh nên không nhận ra các pháp đều
như mộng, như huyễn, bào, ảnh, và từ đó sinh ra suy nghĩ sai lầm, chấp
ngã, chấp pháp.
Chấp ngã là tin và bám víu vào một
cái Ta, từ đó đưa đến bám víu vào những cái liên quan đến Ta (ngã sở)
như: vợ ta, con ta, nhà ta, tài sản của ta, danh dự của ta, v.v...
Chấp pháp là bám víu vào mọi sự vật
trên đời, cho rằng chúng hiện hữu thực sự như: nhà cửa, xe cộ, tiền bạc,
danh lợi, đồ đạc, sông núi, cỏ cây, người vật, v.v...
Nhưng bám víu vào một cái Ta và sự
vật đâu có gì sai quấy? Dưới mắt thế gian thì không có gì sai quấy,
ngược lại cần phải bám víu thì mới gọi là người khôn. Nhưng theo lý Đạo,
cái Ta và sự vật (các pháp) không có thật, vì do nhân duyên giả hợp, vô
thường, vô ngã, không hiện hữu thực sự nên không thể nắm bắt hay bám
víu. Cứ muốn nắm bắt cái không thật có thì không phải vô minh là gì?
Thí dụ: Đi trong sa mạc, dưới ánh
nắng như thiêu như đốt, bao nhiêu nước uống đã cạn. Ta lần mò đi tìm một
nơi nào có nước. Nhìn xa xa ta thấy hình như có một ao nước ở phía trước
nhưng khi lại gần thì chẳng thấy gì cả. Đó chỉ là ảo ảnh sóng nắng, do
ánh nắng mặt trời và sự phản chiếu của cát tạo ra. Vì quá khát nước, ta
lại lên đường hy vọng tìm thấy một ao nước nào khác và lại bị thất vọng.
Cái Ta và các pháp cũng hiện hữu
như sóng nắng, thấy hình như có mà không thật có. Khi đủ duyên thì chúng
ảnh hiện như có, thiếu duyên thì chúng tan biến. Vì không biết như thế
nên mới bám víu, nắm giữ làm của mình, đến khi nó tuột khỏi tầm tay thì
buồn tủi, thất vọng, than khóc.
Ái dục
Ái có nghĩa là yêu hay ưa thích,
dục là ham muốn. Ái dục không thể tự nhiên phát sinh. Ta không thể tự
nhiên yêu ai hay thích ai nếu chưa bao giờ gặp hay tiếp xúc với người
đó. Do sự tiếp xúc (sparsa, contact) mà ái dục (tanha) phát sinh. Mắt
thấy sắc đẹp mới khởi lòng yêu mến, tai nghe âm thanh dịu dàng mới
thích, mữi ngửi mùi hương thơm mới ưa, miệng nếm vị ngon mới thèm, thân
thể xúc chạm cảm giác khoái lạc mới nhớ thương.
Khi sáu giác quan tiếp xúc với
người hay vật bên ngoài gây ra những cảm thọ dễ chịu thì phát sinh sự
yêu thích (ái). Khi lục căn tiếp xúc với lục trần gây ra cảm thọ khó
chịu thì phát sinh sự chán ghét (ố). Yêu hay ghét đều thuộc về Tình cảm.
Khi yêu thì ta muốn bám giữ, chiếm hữu; khi ghét thì ta muốn xua đuổi,
tiêu diệt. Từ đó trong tâm sinh ra đủ loại tình cảm xung đột, phiền não.
Trong vòng 12 nhân duyên (vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc,
thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử) thì thọ và ái (thuộc về Tình) là nơi
phiền não hiển lộ hay biểu hiện. Vô minh, hành, thức (thuộc về Ý) là
nguồn gốc gây ra phiền não.
Theo Ý mình
Theo giáo lý, nguyên nhân sinh ra
phiền não đúng là vô minh và ái dục như đã phân tách ở trên. Nhưng trong
đời sống hàng ngày, ta có thể tìm thấy nguyên nhân của phiền não một
cách giản dị, không cần phải có nhiều kiến thức phật học với những danh
từ chuyên môn.
Thí dụ: Sau một thời gian lân la
làm quen với cô Tám, cuối cùng tôi cũng cưới được cô ta làm vợ. Mừng rỡ
tôi nghĩ mình sẽ có hạnh phúc. Nhưng chỉ sau vài tháng, tôi nhận ra hai
vợ chồng có nhiều ý kiến và ý thích xung khắc. Người nào cũng cho mình
đúng và muốn người kia phải thuận theo mình. Mới đầu còn nhường nhịn
nhưng từ từ không ai nhường ai, sinh ra cãi lộn rồi giận nhau.
Ít lâu sau vì nhu cầu phật sự tại
địa phương có một thầy về kêu gọi Phật tử đóng góp xây chùa. Khi chùa
lập xong thì chúng tôi dắt nhau tới làm công quả. Ban đầu chân ướt chân
ráo vô chùa, ai sai bảo việc gì chúng tôi cũng làm hết, không dám chống
trái. Bà con cô bác và thầy trụ trì thấy vợ chồng tôi siêng năng công
quả nên mời gia nhập vào ban quản trị của chùa. Tôi được bầu làm Tổng
thư ký, vợ tôi làm Thủ quỹ. Tưởng đâu có chức vụ thì làm việc đạo hanh
thông hơn, nhưng không ngờ mình đã bước vào thế giới của phiền não. Cứ
đến buổi họp hàng tháng của ban quản trị là tôi nhức đầu, phải ghi nhớ
tất cả ý kiến của mọi người để làm biên bản. Ui chao ơi! Sao người nào
cũng có ý kiến hết! Không những một ý kiến mà nhiều ý kiến. Ai cũng cho
ý kiến của mình đúng rồi cãi nhau ỏm tỏi. Hết buổi họp, nhiều đạo hữu ra
về buồn bực không muốn nhìn mặt nhau. Sau vài năm sinh hoạt Phật tử đến
chùa càng đông nên thầy trụ trì muốn mở mang làm chùa to hơn, nhưng theo
Ý tôi và vài đạo hữu thì muốn thầy tổ chức các khóa tu học. Vì từ lâu
làm công quả, tôi thấy mình chưa hiểu gì về giáo lý đạo Phật, sinh hoạt
ở chùa quanh quẩn chỉ có lễ lược đám sám, cầu an, cầu siêu. Trong tuần
chùa vắng như chùa Bà Đanh, cuối tuần Phật tử đến chùa lạy phật một chút
rồi xúm nhau ăn uống nói chuyện ồn ào như cái chợ. Tu hành phải đầy đủ
phước huệ như chim muốn bay phải cần hai cánh, nếu chỉ có cánh to cánh
nhỏ thì bay không được huống chi một cánh. Nhưng hình như thầy chỉ muốn
"duy ngã độc tôn", không muốn Phật tử của mình học đạo với thầy khác nên
thầy không đồng ý. Thấy thầy không đồng (ý), nên tôi buồn bực (tình),
muốn từ chức Tổng thư ký ở nhà tu một mình (thân).
May sao hiện nay băng nhựa thuyết
pháp của quý thầy không cánh mà bay khắp nơi, nhờ đó tôi cũng sưu tập
được khá nhiều. Nhưng sau một thời gian nghe băng lại có chuyện mới. Tôi
thích tu Thiền, còn vợ tôi không thích nghe giáo lý mà chỉ thích vào
chùa làm công quả gặp bà con cô bác cho vui thôi. Không nói chuyện Thiền
được với vợ, tôi đành vào chùa tìm anh Năm, vì nghe đâu anh cũng chuyên
tu Thiền. Đến khi gặp anh nói chuyện thì tôi vỡ mộng. Cũng cùng một chữ
Thiền, nhưng Thiền của anh là Thiền của Hoà Thượng Thanh Từ, còn Thiền
mà tôi thích là Thiền của thiền sư Nhất Hạnh. Thế thì tuy cùng Thiền mà
không cùng thuyền!
Vào chùa bất đồng ý kiến với thầy
bạn, về nhà thì không nói chuyện được với vợ. Tôi cảm thấy mình cô đơn,
lẻ loi, không ai hiểu mình hết.
Ở đây nguyên nhân làm tôi khổ là:
muốn sự vật phải theo Ý mình.
Nhưng Ý mình là cái gì? Là ý kiến,
ý tưởng, ý nghĩ, ý niệm, v.v... của mình.
Ý kiến là cái thấy của ý.
Ý tưởng là cái tưởng của ý.
Ý nghĩ là cái nghĩ của ý.
Ý niệm là cái ghi nhớ của ý.
Ý tưởng là cái tưởng của ý.
Ý nghĩ là cái nghĩ của ý.
Ý niệm là cái ghi nhớ của ý.
Tất cả những cái thấy, tưởng, nghĩ,
nhớ của ý, ta thường cho nó là mình, là ta, đạo Phật gọi là ngã kiến.
Nhưng Ý của tôi có luôn luôn đúng
và đáng cho người khác phải theo không? Nhiều khi chính tôi còn không
làm vừa lòng mình được huống chi muốn người khác phải tuân theo ý mình.
Cuối tuần chồng muốn vợ đi câu cá
với mình, còn vợ lại muốn chồng chở mình lên chùa lễ Phật công quả. Phật
tử đến chùa thì muốn quý Thầy phải đặc biệt chú ý ưu đãi mình, nếu không
thì buồn bực không vui. Thầy thì muốn đệ tử phải chiều theo ý mình, nếu
không thì lơ là không nhòm ngó tới.
Vì muốn sự vật xảy ra theo ý mình
nên mới lo. Khi gặp việc trái ý thì tức giận. Bị mất mát thì buồn. Con
người sống trong vòng lẩn quẩn của muốn, lo, giận, buồn, rồi lại buồn,
giận, lo, muốn. Sự vật xảy ra theo nhân duyên chứ không theo ý của ai
hết, khi đủ duyên thì việc thành tựu, thiếu duyên thì không thành.
3/ Tiến trình phiền não
Như đã thấy ở trên, trong đời sống
hàng ngày không lúc nào Ý, Tình, Thân ngưng hoạt động và phiền não cũng
phát xuất từ đó nhất là từ Ý.
Ý thường làm gì?
Nó thường hay nghĩ (tư), gọi là ý
nghĩ (penser); nó hay nhớ (niệm, se souvenir), gọi là ý niệm; nó hay
tưởng (croire, imaginer) gọi là ý tưởng; nó hay thấy (kiến) gọi là ý
kiến. Nó có công năng hiểu biết và phân biệt (thức) gọi là ý thức.
Khi ý thức suy nghĩ, nhớ tưởng điều
lành thì miệng và thân sẽ nói và làm điều lành. Đây là thiện nghiệp và
sẽ đưa đến quả báo hạnh phúc.
Khi ý thức suy nghĩ, nhớ tưởng điều
xấu ác thì miệng và thân sẽ làm điều sai quấy. Đây là ác nghiệp và sẽ
đưa đến hậu quả khổ đau.
Vì thế người tu hành phải luôn luôn
cố gắng giữ gìn tu tập cho ba nghiệp (thân, khẩu, ý) của mình được thanh
tịnh.
Trong Kinh Kalama[14],
có kể chuyện đức Phật đi đến thị trấn Kesaputta, ở đó có những người dân
Kalama, họ thưa hỏi đức Phật rằng: Có một số Sa môn, Bà la môn đến
Kesaputta để truyền đạo, thuyết minh và phát huy giáo lý của mình mà bài
xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý của người khác. Vậy thì
trong những Sa môn này, ai nói thật, ai nói dối?
Đức Phật trả lời: Này các người
Kalama,
chớ có
tin vì nghe nói lại,
chớ có tin vì theo truyền thống,
chớ có tin vì nghe đồn,
chớ có tin vì kinh điển truyền tụng,
chớ có tin vì lý luận siêu hình,
chớ có tin vì đúng theo một lập trường,
chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện,
chớ có tin vì phù hợp với định kiến,
chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền,
chớ có tin vì vị sa môn là bậc thầy của mình.
chớ có tin vì theo truyền thống,
chớ có tin vì nghe đồn,
chớ có tin vì kinh điển truyền tụng,
chớ có tin vì lý luận siêu hình,
chớ có tin vì đúng theo một lập trường,
chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện,
chớ có tin vì phù hợp với định kiến,
chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền,
chớ có tin vì vị sa môn là bậc thầy của mình.
Nhưng này các người Kalama, khi nào
tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là thiện, các pháp này không có
tội. Các pháp này được người trí khen ngợi. Các pháp này nếu được thực
hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời này các người
Kalama, hãy tin theo và an trú.
Qua lời dạy trên, ta thấy đức Phật
không phải là một bậc giáo chủ độc tài, ngài không bao giờ bắt đệ tử
phải tin theo ngài một cách mù quáng và lời dạy trên không có ngã kiến
và giới cấm thủ kiến.
Tiến trình phiền não
Khi Ý có những sự thấy, nghĩ,
tưởng, nhớ sai lầm thì gọi đó là vọng tưởng hay tà kiến. Từ vọng tưởng
sẽ đưa đến vọng tình (tình cảm sai lầm). Và vọng tình sẽ đưa đến vọng
nghiệp (hành động sai lầm). Vọng nghiệp trở lại nuôi dưỡng vọng tưởng,
và cứ thế ba cái này tương duyên tương sinh, xoay vần mãi làm cho chúng
ta phiền não khổ đau.
Ý →
Vọng tưởng
Tình →
Vọng tình
Thân →
Vọng nghiệp
Vọng tưởng đồng nghĩa với vô minh.
Vọng tình đồng nghĩa với ái dục và
phiền não.
Vọng nghiệp đồng nghĩa với tạo
nghiệp (thủ, hữu).
Từ đó ta có tiến trình dưới đây:
Vì không biết (vô minh) nên nghĩ
tưởng sai lầm. Vì nghĩ tưởng sai lầm nên sinh ra ưa ghét, buồn giận
(phiền não). Vì phiền não nên tạo nghiệp bất thiện. Khi tạo nghiệp bất
thiện thì kết quả là khổ đau, khi bị khổ đau thì tâm trí u mê không sáng
suốt (vô minh).
Muốn chấm dứt vòng tròn "vô minh,
phiền não, nghiệp" thì phải chấm dứt vọng tưởng, vọng tình, vọng nghiệp,
tu sửa Ý, Tình, Thân.
-ooOoo-
[1]
.
[2]
Từ Đạo Hạnh là tiền thân của vua Lý Thần Tông. Từ Đạo Hạnh và Nguyễn
Minh Không là hai thiền sư nổi tiếng ở Việt Nam vào thế kỷ 12. Xem
"Thiền Sư Việt Nam" của Thích Thanh Từ.
[3]
Xem Đại Thủ Ấn. Thích Trí Siêu
[4]
Trích "Niệm Phật Thập Yếu". Thích Thiền Tâm
[5]
Kinh Ví dụ con rắn, Trung Bộ Kinh, số 22.
[6]
Sách Vô Ngã, Thích Trí Siêu.
[7]
Tứ tất đàn gồm có: thế giới tất đàn, vị nhân tất đàn, đối trị tất
đàn, đệ nhất nghĩa tất đàn.
[8]
Theo Buddhist Dictionary của Nyanatiloka, trích từ Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhimaga) và Tỳ Bà Sa (Vibhasa).
[9]
Trích Phật Học Phổ Thông, khóa thứ Năm.
[10]
Về sau chuyển sang Đại Thừa, Thế Thân lại chia ra 51 tâm sở. Do đó
sự phân chia này không phải là tuyệt đối.
[11]
Trích Tâm Lý Học Phật Giáo, Thích Tâm Thiện.
[12]
"Tôi" ở đây là nhân vật giả tưởng của chương 1.
[13]
Kinh Pháp Cú do HT Thích Minh Châu dịch.
0 Kommentare:
Đăng nhận xét