"Hiện tại, người niệm
Phật chỉ là liên tay khua mõ, miệng ong óng gào theo cho nên chẳng được lợi ích
gì. Cần phải niệm sao cho từng câu thoát ra khỏi miệng vọng vào tai, từng tiếng
đánh thức tự tâm ví như người đang ngủ mê mệt, có ai gọi lớn tên lên thì kẻ đó
sẽ thức giấc..."
Chỉ còn một câu A Di Ðà
Phật để đắp đổi tháng ngày, chỉ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới làm quê nhà
mình: Nay ta niệm Phật, mai sau sanh về Tây phương. Còn gì hay hơn, hãy nên vui
mừng lớn lao, đừng sanh phiền não!
Tâm vốn vô niệm,
hễ có niệm khởi lên là sai; nhưng chúng sanh
từ vô thỉ đến nay quen thói vọng tưởng khó lòng thay đổi ngay được. Nay dạy họ
niệm Phật chính là dùng độc trị độc, dùng quân dẹp quân.
Một pháp Niệm Phật lại
có nhiều môn. Nay pháp Trì Danh đây là đường tắt nhất trong các đường tắt. Bởi
vì đức Phật có vô lượng đức nên bốn chữ danh hiệu đã bao gồm trọn cả.
A Di Ðà chính là toàn
thể nhất tâm, tâm bao gồm mọi đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn Giác,
Thỉ Giác, Chơn Như, Phật Tánh, Bồ Ðề, Niết Bàn. Trăm ngàn vạn danh
hiệu đều được chứa đựng bất tận trong một danh hiệu này.
Chúng sanh học Phật cũng
có vô lượng hành pháp, nhưng một pháp Trì Danh đây đã bao gồm trọn tất cả vì
Trì Danh chính là trì một tâm đây. Tâm đã gồm trăm hạnh, Tứ Ðế, Lục Ðộ cho đến
tám vạn bốn ngàn hằng hà sa vi trần hết thảy pháp môn, bao gồm hết cả không còn
sót gì!
Có nhiều cách trì
danh:
1) Một là Minh Trì nghĩa
là xưng niệm ra tiếng.
2) Hai là Mặc Trì nghĩa
là niệm thầm không ra tiếng.
3) Ba là Bán Minh Bán
Mặc Trì nghĩa là chỉ khẽ động môi lưỡi để niệm. Cách này được những người tụng
chú gọi là Kim Cang Trì.
Lại còn có cách niệm ghi
số hoặc niệm chẳng ghi số, tùy ý dùng cách nào cũng được!
Cách trì niệm nào cũng
chia ra làm Sự và Lý: Ức niệm chẳng gián đoạn thì gọi là Sự Trì; thể cứu đến
cùng tột chẳng hề gián đoạn thì gọi là Lý Trì.
“Ức niệm” là
nghe nói đến danh hiệu Phật thì luôn nhớ tới, luôn nghĩ tới, tâm duyên theo
từng chữ rõ ràng; câu trước, câu sau liên tiếp chẳng gián đoạn. Ði, đứng, nằm,
ngồi chỉ có mỗi một niệm này, không có niệm thứ hai; chẳng bị tạp loạn bởi các
niệm tham, sân, si phiền não đúng như kinh Thành Cụ Quang Minh Ðịnh Ý dạy:
“Nhất tâm nơi vắng vẻ,
tịch mịch; nhất tâm giữa các phiền não; cho đến giữa những cảnh khen, chê, lợi,
tổn, thiện, ác v.v… đều nhất tâm”.
Do mặt Sự đã đạt, nhưng
chưa thấu triệt mặt Lý, chỉ đạt được Tín lực, chưa thấy Ðạo nên gọi là Sự Nhất
Tâm.
“Thể cứu” là
nghe danh hiệu Phật thì không những chỉ ức niệm mà còn trở lại quán sát ngay
cái niệm ấy, suy lường, thẩm định tìm tòi đến tận cùng cội rễ. Thể cứu đến cùng
tột thì đột nhiên sẽ khế hợp bổn tâm. Trong đây lại gồm có hai loại:
a. Một là “như
- trí bất nhị”:
- Ngoài cái tâm năng
niệm chẳng hề có đức Phật để mình niệm. Ðấy là ngoài Trí chẳng có Như.
- Ngoài đức Phật được
niệm chẳng hề có cái tâm năng niệm để niệm Phật. Ðó là ngoài Như không có Trí
nên chỉ có nhất tâm.
b. Hai là Tịch Chiếu Nan
Tư:
Nếu bảo là Có thì bản
thể của cái tâm năng niệm tự nó là Không, trọn chẳng thể có được đức Phật được
niệm.
Nếu bảo là Không thì cái
tâm năng niệm vằng vặc chẳng mờ mịt, đức Phật được niệm đành rành phân minh.
Nếu bảo là “chẳng
có chẳng không” thì cả hữu niệm lẫn vô niệm đều mất.
Nếu bảo là “chẳng
phải có chẳng phải không” thì hữu niệm lẫn vô niệm cùng tồn tại.
“Chẳng phải có” là
thường tịch; chẳng phải không là thường chiếu. “Chẳng có chẳng không” và“chẳng
phải có chẳng phải không” là chẳng tịch, chẳng chiếu nhưng vừa chiếu,
vừa tịch.
Không cách gì để diễn
tả, suy lường được, chẳng thể gọi tên được nên chỉ có Nhất Tâm.
Ðó chính là Năng lẫn Sở
đều tiêu, kiến giải Hữu lẫn Vô cùng mất. Thể vốn sẵn thanh tịnh thì còn có pháp
gì tạp loạn được nó.
Do vì thấy một cách đúng
đắn như thế nên gọi là Lý Nhất Tâm.
Nhưng, Sự nương theo Lý
mà khởi, Lý được tỏ bày bởi Sự; Sự và Lý hỗ trợ nhau, chẳng thể phế bỏ một bên
nào.
Dẫu chấp Sự nhưng niệm
đến mức liên tục thì vẫn chẳng mất phần dự vào các phẩm vị; còn nếu chấp Lý
nhưng tâm chưa minh thật sự thì sẽ biến thành cái họa lạc vào Không kiến.
Niệm Phật to
tiếng dễ mất sức, niệm thầm dễ bị hôn trầm. Chỉ cốt niệm
miên miên mật mật, tiếng niệm đọng nơi răng, môi, tức là Kim Cang trì. Nhưng
lại chẳng nên chấp chặt. Nếu biết mình đã mệt thì niệm thầm cũng chẳng trở ngại
gì. Nếu biết mình hôn trầm thì chẳng ngại gì niệm lớn tiếng.
Hiện tại, người niệm
Phật chỉ là liên tay khua mõ, miệng ong óng gào theo cho nên chẳng được lợi ích
gì. Cần phải niệm sao cho từng câu thoát ra khỏi miệng vọng vào tai, từng tiếng
đánh thức tự tâm ví như người đang ngủ mê mệt, có ai gọi lớn tên lên thì kẻ đó
sẽ thức giấc.
Bởi vậy, điều quan trọng
nhất trong việc niệm Phật là nhiếp tâm.
Tạp niệm là bịnh,
niệm Phật là thuốc. Niệm Phật chính là để
trị tạp niệm, nếu chẳng trị nổi tạp niệm là do niệm Phật chẳng tha thiết. Lúc
tạp niệm khởi lên liền dốc sức ra công; mỗi chữ, mỗi câu tinh nhất chẳng xen
tạp thì tạp niệm tự dứt.
Trong mỗi niệm
luôn niệm Phật không có tạp niệm thì gọi là Nhất Tâm.
Nhất tâm niệm Phật mà còn nhất tâm tu các pháp môn khác thì là Nhị Tâm!
Không tạp niệm mới chỉ
là Sự Nhất Tâm nay mình còn làm chưa được huống hồ là Lý Nhất Tâm? Vì vậy, niệm
Phật phải giữ chí đừng để nhị tâm, đừng vì lẽ tam muội khó thành bèn vội đổi
sang tu các hạnh khác!
Kẻ mới học sanh
sau vừa mới lấy câu niệm Phật đặt nơi tâm thì
vọng tưởng, suy nghĩ nổi lên tơi bời, đè lấp cả cái giác bèn cho rằng công phu
niệm Phật chẳng thể nhiếp tâm nổi, chẳng hề biết rằng mình làm sao đoạn ngay
nổi nguyên do sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay cho được?
Ngay trong lúc vạn niệm
vần vũ chính là lúc để ra sức công phu [mặc cho] định tâm, tán tâm nhoang
nhoáng. Lâu ngày công phu thuần thục, tự nhiên vọng niệm chẳng khởi.
Các ông coi những vọng
niệm mình nhận biết được đó là nặng cho nên bèn lơ là câu niệm Phật này. Còn
như lúc chẳng niệm Phật, vọng niệm bồng bột tơi bời chẳng ngưng nghỉ trong một
sát na nào hết thì các ông làm sao biết được?
Cổ nhân dạy thân
cận minh sư, cầu thiện tri thức, nhưng thật ra thiện
tri thức chẳng thể dùng miệng truyền tâm, trao pháp môn bí mật được, họ chỉ
giúp người khác gỡ niêm cởi trói. Ðấy chính là “bí mật”!
Nay chỉ tám chữ “chấp
trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn” chính là pháp môn bí mật để gỡ niêm
cởi trói, là đường lớn thênh thênh để thoát sanh tử.
Sáng niệm, chiều niệm,
đi niệm, ngồi niệm, niệm niệm liên tục tự thành tam muội, chứ đừng có cầu cái
gì khác nữa!
Tâm vốn chẳng
sanh do duyên hợp mà sanh. Tâm vốn chẳng chết, do
duyên tan lìa nên chết. Tựa hồ có sanh tử, nhưng vốn chẳng đến đi. Lãnh hội được
điều này thì sanh thuận, tử an, thường tịch, thường chiếu.
Nếu như chưa làm được
như thế thì nên buông bỏ toàn thân, khăng khăng trì một câu A Di Ðà Phật cầu sanh
Tịnh Ðộ. Giả sử các duyên chưa hết, thọ mạng chưa dứt thì càng phải nên niệm
Phật, sẽ có lợi ích lớn. Cổ đức bảo: “Pháp môn Niệm Phật là thuật
trường sanh của đấng Kim Tiên”. (1)
Sanh tử chẳng lìa
nhất niệm, thậm chí vạn hạnh dù thế gian hay xuất thế
gian đều chẳng lìa khỏi một niệm. Nay dùng cái niệm ấy để niệm Phật thì sẽ
thiết tha, gần gũi, tinh chuyên, chơn thật xiết bao? Nếu truy xét chỗ bắt nguồn
của cái niệm ấy thì nó chính là tự tánh Di Ðà, chính là ý sang Tây của Tổ Sư.
Dù cho chẳng ngộ được,
cứ nương theo nguyện lực vãng sanh Cực Lạc, cắt ngang sanh tử, chẳng thọ luân
hồi thì rốt cục sẽ đại ngộ!
Xin hãy buông bỏ vạn
duyên, trong mười hai thời, niệm niệm khăng khăng thì đấy chính là điều tôi rất
mong mỏi.
Bảy mươi tuổi từ
xưa đã hiếm, sống trăm năm có được mấy người! Nay trong
lúc tuổi xế chiều đây chính là lúc buông bỏ hoài bão, thấy rõ thế gian hệt như
một trường hý kịch, chẳng hề chơn thật. Chỉ còn một câu A Di Ðà Phật để đắp đổi
tháng ngày, chỉ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới làm quê nhà mình: nay ta niệm
Phật, mai sau sanh về Tây phương. Còn gì hay hơn, hãy nên vui mừng lớn lao, đừng
sanh phiền não!
Giả sử gặp phải chuyện
chẳng như ý hãy liền xoay chuyển ý niệm, gấp rút đề cao câu niệm Phật này, hồi
quang phản chiếu: ta là người sống trong thế giới của Phật A Di Ðà lẽ nào còn
thấy biết như người trong thế gian mà nóng giận, vui vẻ; chỉ nhất tâm niệm Phật.
Ðấy chính là pháp môn
đại an lạc, đại giải thoát của những người trí huệ.
Nguyên do của
bịnh tật phần nhiều là do sát sanh; bởi thế, ta nên
thiên trọng phóng sanh. Bên ngoài càng thêm sám, trong tâm tự hối, công đức rất
nhiều.
Xin hãy để tâm trống
trải, quét sạch hết thảy các duyên. Trong cái tâm rỗng rang đó chỉ niệm một câu
A Di Ðà Phật.
Nói niệm Phật đó thì bất
tất phải nhếch mép, động lưỡi; chỉ lặng lẽ dùng tâm nhãn phản chiếu từng chữ
phân minh, từng câu tiếp nối từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, tâm tâm chẳng hề
gián đoạn.
Nếu có đau khổ thì cứ
nhẫn nại, nhất tâm nghĩ đến câu niệm. Kinh dạy: “Chí tâm niệm Phật một
tiếng diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”; bởi thế, công
đức niệm Phật rất lớn lao vậy.
Kẻ học Phật chẳng
cần phải trang nghiêm hình dáng, chỉ quý tu hành
chơn thật:
Hàng tại gia cư sĩ chẳng
cần phải áo sồng, khăn đạo.
Người còn để tóc có thể
mặc thường phục niệm Phật, chẳng nhất thiết phải gõ mõ, đánh trống.
Người thích yên tịnh có
thể tự lặng lẽ niệm Phật, chẳng nhất thiết phải quây quần lập hội.
Người ngại việc cứ tự
đóng cửa niệm Phật, chẳng cần phải vào chùa nghe kinh.
Người biết chữ có thể tự
tuân theo giáo pháp niệm Phật.
Ngàn dặm thiêu hương
chẳng bằng ngồi yên trong nhà niệm Phật.
Cung phụng thầy tà chẳng
bằng hiếu thuận mẹ cha niệm Phật.
Giao du rộng rãi với bè
bạn ma chẳng bằng một thân thanh tịnh niệm Phật.
Gởi tiền kho kiếp sau
chẳng bằng hiện đời làm phước niệm Phật.
Van vái, cầu đảo chẳng
bằng hối lỗi sửa mình niệm Phật.
Tu học theo kinh sách
ngoại đạo chẳng bằng một chữ không biết nhưng niệm Phật.
Vô tri bàn xằng lẽ Thiền
chẳng bằng ròng chắc, già dặn trì giới, niệm Phật.
Mong cầu yêu mỵ linh ứng
chẳng bằng chánh tín nhân quả niệm Phật.
Nói tóm lại, đoan chánh
tấm lòng, diệt ác thì người niệm Phật như thế gọi là thiện nhân. Nhiếp tâm trừ
bỏ tán loạn thì người niệm Phật như thế gọi là hiền nhân. Ngộ tâm đoạn hoặc thì
người niệm Phật như thế gọi là thánh nhân.
Khuyên người cực
nhàn hạ hãy niệm Phật: cưới gả đã xong, con cháu đã yên bề gia
thất, an nhàn vô sự; đây đúng là lúc nên tận tâm, tận lực mỗi ngày niệm mấy
ngàn câu cho đến cả vạn câu.
Khuyên người lúc bận lúc
rảnh hãy niệm Phật: xong việc một nửa hay chưa xong, dù bận hay rảnh, tuy chưa
cực nhàn, vẫn có thể lúc bận thì lo lắng công việc, lúc rảnh bèn niệm Phật. Mỗi
ngày niệm mấy trăm câu, cho đến mấy ngàn câu.
Khuyên người bận rộn
cùng cực hãy niệm Phật: siêng lo việc nước, bôn ba gia nghiệp, dẫu chẳng có lúc
thảnh thơi, nhưng cần phải dành lấy rảnh rang trong khi bận rộn để niệm Phật.
Mỗi ngày sáng sớm hành Thập Niệm cho đến niệm mấy trăm câu trong cả ngày.
Pháp môn Niệm
Phật bất luận nam, nữ, Tăng, tục, quý, hèn, hiền, ngu, không có một ai là chẳng
niệm Phật được!
Nếu là người phú quý,
của cải dư dả thì đúng là phải niệm Phật.
Nếu là kẻ bần cùng, nhà
hẹp, của ít thì càng phải nên niệm Phật.
Nếu là người có con
cháu, việc cúng bái tổ tiên đã có chỗ nhờ cậy thì rất nên niệm Phật.
Nếu là người không con,
trơ trọi một thân tự do thì càng phải nên niệm Phật.
Nếu ai có con hiếu thuận,
yên hưởng con cái phụng dưỡng thì rất nên niệm Phật.
Nếu ai có con ngỗ
nghịch, chẳng sanh lòng yêu thương thì thật đúng là phải niệm Phật.
Nếu ai vô bịnh, thân thể
khỏe mạnh thì càng phải nên niệm Phật.
Nếu ai có bịnh, rất gần
cơn vô thường thì càng phải nên niệm Phật.
Nếu ai già cả, tháng
ngày chẳng còn mấy thì càng phải nên niệm Phật.
Nếu ai tuổi trẻ tinh
thần sáng suốt thì thật là rất tốt để niệm Phật.
Nếu ai an nhàn, tâm
không bị sự gì khuấy động thì thật đúng là nên niệm Phật.
Nếu là người bận rộn,
được đôi lúc nhàn giữa khi bận rộn thì càng phải nên niệm Phật.
Nếu là người xuất gia,
tiêu dao ngoài cõi đời thì càng phải nên niệm Phật.
Nếu là kẻ tại gia biết
cõi đời đúng là nhà lửa thì càng phải nên niệm Phật.
Nếu ai thông minh, thông
hiểu Tịnh Ðộ thì rất nên niệm Phật.
Nếu là kẻ ngu si, thô
lỗ, không làm gì khác nổi thì thật đúng là nên niệm Phật.
Nếu ai trì luật mà Luật
lại do Phật chế ra; vì thế, rất nên niệm Phật.
Nếu ai đọc kinh thì kinh
là do Phật dạy, càng phải nên niệm Phật.
Nếu ai tham thiền, do
Thiền là tâm Phật nên càng phải nên niệm Phật.
Nếu ai ngộ đạo thì ngộ
cần phải được Phật chứng cho nên càng phải niệm Phật.
Khuyên khắp mọi người
hãy cấp bách niệm Phật. Chín phẩm vãng sanh, hoa nở thấy Phật, gặp Phật nghe
Pháp, rốt ráo thành Phật mới biết rằng tâm vốn dĩ là Phật.
Chỉ cần niệm
Phật, tôn xưng đã thành
quy kính. Sáu chữ, bốn chữ thật chẳng sai khác gì. Có điều là do pháp truyền
lâu ngày hóa tệ, biến thành lê thê: khua chiêng, thúc trống, như xướng, như ca,
thổn thức, rên siết như gào, như quát; thiên nhĩ nghe thấy chẳng buồn bã hay
sao?
Nhưng dù là xưng danh
một cách hoan hỷ hay nóng nảy cũng vẫn gieo trồng nhân lành, quả báo tương lai
chẳng thể nghĩ bàn. Kẻ phàm tình mê muội chứ người trí thì biết rõ!
Chú thích:
(1) Kim Tiên: một danh
từ người Trung Hoa dùng để gọi Phật. Vì Phật thân sắc vàng ròng (tử kim thân)
nên họ Phật là Kim Tiên. Một danh xưng khác cũng thường dùng để chỉ Phật là
Hoàng Diện Công (ông mặt vàng).
1 Kommentare:
TRỞ GÓT
Chưa già sao thấy mỏi mòn
Sức người giảm sút, chẳng còn như xưa
Bỏ Tham trở gót là vừa
Có duyên Giác ngộ... sao chưa tìm về ?
Nhọc nhằn giữa chốn si mê
Tham lam phú quí... chán chê cảnh đời
Lúc vui vẻ, khi lệ rơi
Sao ta cứ mãi... chơi vơi giữa dòng...
Đời người ai cũng ước mong
Mai này thanh thản... thong dong an lành
Dụng tâm tu sửa sẽ thành
Tu Tâm dưỡng tánh... phước lành có dư...
Dòng đời thực thực hư hư
Tham- Sân- Si- Hận... tâm tư buồn rầu
Nắng mưa mưa nắng giãi dầu
Sao ta cứ mãi... đau sầu đeo mang.
Đường về rộng lớn thênh thang
Buông xã trở gót... hành trang nhẹ nhàng
Hướng tâm theo ánh Đạo Vàng
Tây Phương cực lạc... rõ ràng phần ta ...!
17.05.2014
HOANGHAI
Đăng nhận xét