"Pháp môn niệm Phật là con đường tu tập khá phù hợp với
nhiều căn cơ khác nhau. Thực ra, pháp môn niệm Phật có từ thời Phật
giáo Nguyên thủy, Đức Phật dạy các đối tượng quán niệm trong đó niệm
Phật là đứng đầu..."
Con đường giải thoát của đạo Phật
căn bản là ở tâm, tức là nỗ lực cá nhân, pháp môn Tịnh độ vẫn không
ngoài đường lối ấy, hòn đá lớn nhờ thuyền chở mà nổi trên nước, nhưng
vận chuyển hòn đá ấy lên thuyền phải là công phu tự thân, để có được 10
niệm nhất tâm và sự cứu độ của Phật, hành giả phải có công phu tích lũy
lớn, nghĩa là có một quá trình tu tập. Sau này, khi các tông phái khác
phát triển đã ảnh hưởng đến tư tưởng Tịnh độ, nhất là tư tưởng Tịnh độ
tại tâm như "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ" làm cho pháp môn Tịnh độ có tính tự lực nhiều hơn nhưng có lẽ đó không phải là bản ý của Tịnh độ tông.
DẪN NHẬP
Tịnh độ là một trong những pháp môn tu
tập phổ biến đối với người Phật tử tại nhiều nước như Trung Hoa, Nhật
Bản, Việt Nam. Giáo nghĩa Tịnh độ tông thuộc hệ tư tưởng Đại thừa và
xuất hiện vào thời kỳ Phật giáo Phát triển.
Phật giáo Nguyên thủy chú trọng tự lực,
Phật giáo Phát triển (Đại thừa) đa dạng hóa đường lối tu tập nên có
những pháp môn chú trọng tha lực, tức nhờ vào Phật lực mà thành tựu đạo
quả hoặc vượt thoát khổ đau, lý tưởng như pháp môn Tịnh độ. Vì vậy, Tịnh
độ là một đường lối tu tập phổ biến, đáp ứng nhu cầu tâm linh về một
đời sống vĩnh cửu và hoàn toàn giải thoát khổ đau của con người.
NỘI DUNG
I. Lịch sử và sự truyền thừa Tịnh độ tông
Lý thuyết Tịnh độ được phát triển ở Ấn
Độ, là một đường lối tu tập nhưng không thiết lập tông phái, chỉ khi các
kinh điển Tịnh độ truyền qua Trung Hoa thì Tịnh độ trở thành tông phái.
Phật giáo truyền vào Trung Hoa vào cuối
thế kỷ thứ nhất cho đến đầu thế kỷ thứ hai nhưng những kinh luận thuộc
giáo nghĩa Tịnh độ phải đến thế kỷ thứ ba mới xuất hiện. Vào thời Ngụy
(250), ngài Khang Tăng Ngãi (Sanghavarman) dịch kinh Vô Lượng Thọ, cư sĩ
Chí Khiếm (thời Tôn Quyền) dịch bộ Đại A Di Đà kinh. Đến đời Diêu Tần
(thế kỷ IV), ngài La Thập dịch Phật thuyết A Di Đà kinh, còn gọi là tiểu
kinh A Di Đà, ngài Phật Đà Bạt Đà La (Giác Hiền) dịch Tân Vô Lượng Thọ
kinh, Quán Phật tam muội kinh, ngài Trí Nghiêm dịch Tịnh độ tam muội.
Thời Lưu Tống (thế kỷ V), ngài Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas) dịch Quán
Vô Lượng Thọ kinh, ngài Bồ Đề Lưu Chi (thế kỷ VI) dịch Vô Lượng Thọ kinh
luận. Đặc biệt, ngài Thế Thân trước tác Vãng sinh Tịnh độ luận..., đến
đây giáo nghĩa Tịnh độ tông tương đối hoàn chỉnh.
Ba tác phẩm được coi là nền tảng của
Tịnh độ tông là kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, cộng
thêm tác phẩm Vãng sinh Tịnh độ luận của Thế Thân. Mặc dù chỉ một vài
bộ kinh triển khai giáo lý Tịnh độ, nhưng rất nhiều kinh luận trong hệ
thống giáo lý Đại thừa ca ngợi tư tưởng Tịnh độ, làm cho Tịnh độ tông
trở nên phổ biến và nổi bật trong nền tư tưởng Phật học Trung Hoa.
Lịch sử truyền thừa của Tịnh độ tông
không theo đường lối thông thường là người trước truyền cho người sau
như các tông phái khác, mà chỉ căn cứ vào sự đóng góp nhiều ít công cuộc
xiển dương giáo lý Tịnh độ.
Tịnh độ tông Trung Hoa, ngài Huệ Viễn
(333-416) được coi là người sáng lập. Ngài quê ở Nhạn Môn, 21 tuổi xuất
gia làm môn đệ của ngài Đạo An. Ngài thông minh xuất chúng, được ngài
Đạo An khen ngợi. Vì hoàn cảnh loạn lạc, Ngài di cư xuống Tương Dương,
sau đó trên đường hành đạo, Ngài đến Lô Sơn, thấy cảnh trí u tịch, phù
hợp với chí nguyện tu hành, Ngài ở lại đó và thành lập chùa Đông Lâm.
Ngài chủ trương tu tập pháp môn niệm Phật, ẩn dật tu hành không màng thế
sự..., nhất là quan hệ gần gũi với vua chúa. Để phản đối sắc lệnh của
nhà vua về việc người xuất gia vào chầu phải lạy, Ngài viết bộ Sa môn
bất bái vương giả luận. Năm 402, Ngài lập ra Hội Niệm Phật tại Lô Sơn,
lấy tên là Bạch liên xã, đây là một hình thức tổ chức quần chúng tu tập,
manh nha một đường lối tu Tịnh độ cho tứ chúng về sau. Tổ chức Bạch
liên xã không phân biệt tại gia hay xuất gia, cách tu đơn giản là thành
kính lễ bái và niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà. Pháp tu của ngài Huệ
Viễn đã tạo nên đường lối của Tịnh độ tông.
Đến thế kỷ sau, ngài Đàm Loan (476-542)
tiếp nối xiển dương pháp môn Tịnh độ. Ngài cũng là người ở Nhạn Môn, tu
học rất tinh cần, chuyên nghiên cứu chú giải kinh sách nhưng nửa chừng
bị bệnh nặng, Ngài tìm Thầy chữa bệnh, nhân đó gặp đạo sĩ Đạo Hoằng Cảnh
dạy cho tiên thuật và giao cho 10 cuốn tiên kinh. Trên đường về phương
Bắc gặp được ngài Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci) trao cho Ngài những tác phẩm
pháp môn Tịnh độ, căn cứ vào đó Ngài chuyên tu Tịnh độ. Ngài trước tác
những bộ: Vãng sinh luận chú, Tán Phật A Di Đà kệ... Ngài dạy chúng tu
học và xiển dương giáo lý Tịnh độ, chú trọng yếu tố "Tín tâm niệm Phật", đây cũng là sắc thái khác của Tịnh độ tông.
Ngài Đạo Xước (562-645) có nhân duyên
với ngài Đàm Loan dù sống cách nhau vài chục năm. Ngài đã tiếp nhận pháp
môn Tịnh độ trong trường hợp đặc biệt. Ngài Đạo Xước xuất gia năm 14
tuổi, chuyên nghiên cứu về Niết bàn tông, một hôm đến chùa Huyền Trung
núi Thạch Bích, đọc bia đá ghi chép sự tích ngài Đàm Loan thì lòng sinh
cảm kích, Ngài quay sang tu Tịnh độ và thường giảng dạy Quán Vô Lượng
Thọ kinh. Ngài nỗ lực giáo hóa dân chúng trong vùng tu Tịnh độ và là
người chế ra tràng hạt để dạy cách trì danh niệm Phật. Đối với nông dân,
Ngài bày cách lấy hạt đậu đếm số niệm Phật gọi là "tiểu đậu niệm Phật".
Ngài trước tác An lạc tập và một số tác phẩm khác, triển khai ý nghĩa
tu dễ và tu khó để kết luận rằng tu Tịnh độ là dễ. Ngài biện minh ý
nghĩa tha lực của Đức Phật A Di Đà làm cho mọi người đều thích thú pháp
môn này. Đệ tử của Ngài khá đông, xuất sắc gồm có Thiện Đạo, Đạo Phủ,
Tăng Điền...
Ngài Thiện Đạo (613-681) nối chí Thầy
mình xiển dương giáo lý Tịnh độ. Phật giáo đời Đường rất hưng thịnh,
Tịnh độ tông cũng phát triển mạnh mẽ, phần lớn nhờ công lao của Thiện
Đạo. Ngài là người ở Lâm Truy, khi xuất gia tìm Thầy học đạo, Ngài gặp
Đạo Xước học pháp môn Tịnh độ. Sau khi Thầy mất, Ngài về Trường An trụ
trì chùa Quang Minh và chùa Từ Ân, giảng dạy và truyền bá pháp môn Tịnh
độ. Ngài viết 10 vạn cuốn kinh A Di Đà và vẽ 300 đồ hình tả cảnh Tịnh
độ, làm cho thế giới Tịnh độ trở nên sống động và hiện thực trong tâm
người tu nên họ theo rất đông. Ngài trước tác nhiều kinh sách như Quán
Vô Lượng Thọ kinh sớ, Vãng sinh lễ tán, Quán niệm pháp môn, Ban châu
tán. Đường lối tu tập của Ngài được đời sau ca ngợi và trở thành một
phương thức đặc trưng của Tịnh độ tông.
Ngài Từ Mẫn (680-748) là một hành giả Tịnh độ khá nổi tiếng vào đời Đường, Ngài noi gương các vị tiền bối, lên đường "nhập Trúc cầu pháp".
Ngài ra đi năm 702 (thời Võ Tắc Thiên), đến Bắc Thiên Trúc (Ấn Độ) gặp
được hóa thân của Quán Thế Âm Bồ tát trao cho pháp môn Tịnh độ. Ngài ở
Ấn Độ 18 năm mới về nước, được vua Huyền Tôn tặng danh hiệu "Từ Mẫn tam tạng".
Ngài trước tác Vãng sinh Tịnh độ tập để truyền bá pháp môn Tịnh độ mà
Ngài đã lãnh hội trên đất Ấn, trở thành một dòng tư tưởng Tịnh độ độc
lập. Tuy nhiên, hệ thống của Ngài không hưng thịnh lâu.
Như vậy, hệ thống truyền thừa pháp môn
Tịnh độ từ sơ khởi cho đến đời Đường không tiếp nối đời này qua đời khác
mà tùy thuận vào nhân duyên của mỗi hành giả. Bắt đầu từ đời Đường mới
có sự truyền thừa, và rõ nét nhất phải chờ đến đời Tống. Sau này, các
học giả phân chia đường hướng tu tập của pháp môn Tịnh độ thành 4 hệ
thống: Huệ Viễn chú trọng "Quán tưởng niệm Phật", Đàm Loan chú trọng "Tín tâm niệm Phật", Thiện Đạo chú trọng "Khẩu xưng niệm Phật", Từ Mẫn thiên về "Thiện căn niệm Phật".
Đến đời Tống (960-1279), Phật giáo vẫn
duy trì các hệ tư tưởng và truyền thống tu tập của các tông phái. Tịnh
độ tông mặc dù vẫn duy trì truyền thống độc lập của mình, nhưng vẫn bị
ảnh hưởng tác động của các hệ tư tưởng khác. Vào thời kỳ này, các tông
phái nói chung đều có xu hướng dung hợp, ví dụ Thiên thai tông chủ
trương kiêm tu Tịnh độ, đại biểu cho chủ trương này có ngài Tuân Thức,
Từ Lễ, Trí Viên. Luật tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài Nguyên Chiếu chủ
trương. Thiền tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài Diên Thọ chủ trương...
cho nên sắc thái Tịnh độ muôn màu muôn vẻ. Những hội niệm Phật đua nhau
xuất hiện, nổi bật là hội "Tịnh hạnh xã" của ngài Tĩnh Thường.
Đời Minh (1360-1661), Tịnh độ tông được
phát triển do các đại sư Vân Thê, Liên Trì, Trí Húc, nhất là hàng cư sĩ
tu Tịnh độ phát triển mạnh phổ cập sâu rộng trong quần chúng.
Đến đời Thanh, tư tưởng Tịnh độ dung hợp
trong mọi pháp môn, tông phái. Những đại sư xiển dương Tịnh độ có ngài
Tĩnh Am - Thật Hiền (1686-1734). Ngài Ấn Quang ở cuối đời Thanh là một
bậc cao đức truyền bá pháp môn Tịnh độ.
Pháp môn Tịnh độ hưng khởi ở Trung Quốc,
sau đó được truyền qua các nước Tây Tạng, Nhật Bản, Việt Nam, Triều
Tiên, được tiếp nhận nhanh chóng và phát triển mạnh mẽ.
II. Giáo nghĩa Tịnh độ tông
Tịnh độ tông lấy 3 bộ kinh và 1 bộ luận làm nền tảng cho tư tưởng của mình:
Kinh "Vô Lượng Thọ" nói về tiền thân Đức Phật A Di Đà khi còn là Pháp Tạng Tỳ kheo đã phát nguyện 48 lời nguyện để cứu độ chúng sanh;
Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rõ phép quán tưởng niệm Phật;
Kinh A Di Đà miêu tả thế giới Cực lạc đẹp đẽ trang nghiêm có Đức Phật A Di Đà đang thuyết pháp;
Và bộ luận Vãng sinh Tịnh độ của ngài Thế Thân tán thán và giảng về ý nghĩa của ba bộ kinh trên.
Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ thì giáo lý
Tịnh độ đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết cho hoàng hậu của nước
Kosala là Videhi. Bà bị chính con trai bà giam lỏng và chán nản vô cùng
trước cảnh thế thái nhân tình. Bà cầu mong Đức Phật cứu giúp vượt qua
nỗi khốn khổ này, Đức Phật đã xuất hiện và giới thiệu các quốc độ chỉ có
an lạc không có khổ đau, bà chọn cõi Phật A Di Đà. Đức Phật dạy bà
phương pháp niệm danh hiệu Phật để được vãng sanh về cõi ấy. Trong kinh
tạng Nguyên thủy không đề cập đến chi tiết ấy, có thể nói kinh tạng
Nguyên thủy ít quan tâm đến yếu tố tha lực. Đến thời kỳ đầu của Phật
giáo Phát triển, ngài Nagasena đã đưa lý thuyết Phật cứu độ vào trong lý
luận của mình, trở thành tiền đề cho tư tưởng Phật lực về sau.
Cực lạc thế giới, Hán dịch từ tiếng Phạn
Sukhànatì, là nơi có hạnh phúc mà không có khổ đau. Cõi giới này do Đức
Phật A Di Đà giáo hóa. Có thể nói thế giới Cực lạc là một khái niệm
khác của Niết bàn, vì Niết bàn (Nirvana) có nghĩa là dập tắt mọi phiền
não khổ đau. Trong ý nghĩa hẹp hơn thì đó là một thế giới hiện thực ở
phương Tây, khác với thế giới Ta bà đầy đau khổ này mà kinh A Di Đà gọi
là "ngũ trược ác thế".
Thế giới Cực lạc có những ưu điểm tiêu
biểu như không có ô uế, không có phiền não, thọ mạng lâu dài, ăn uống tự
có, có các thần thông... Đất nước rất đẹp được cấu tạo bằng các chất
quý báu như vàng, ngọc, lưu ly...; cây cối, ao hồ, cung điện, đường sá
đều bằng các thứ báu, có ca nhạc như âm nhạc cõi trời, các loài chim hót
ca như thuyết pháp... Tóm lại, đó là một thế giới lý tưởng, là môi
trường tốt cho sự tu hành và đạt được hạnh phúc tối thượng.
Đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ của thế
giới Cực lạc. A Di Đà là danh từ dịch âm của Amitàbha, dịch nghĩa là Vô
lượng quang, còn Amitàyus là Vô lượng thọ. Vô lượng quang chỉ cho ánh
sáng vô lượng, biểu tượng cho trí tuệ viên mãn hay cho Pháp thân
(Dharma-kàya). Vô lượng thọ chỉ cho đời sống vĩnh cửu, biểu tượng của
đại định hay còn gọi là Giải thoát thân (Vinuktikàya). Với ý nghĩa danh
hiệu như vậy, Đức Phật A Di Đà tượng trưng cho sự sống vĩnh cửu và giải
thoát hoàn toàn khổ đau, đó là mục đích cao cả và hấp dẫn đối với con
người ở mọi thời đại.
Theo kinh Vô Lượng Thọ thì Đức Phật A Di
Đà từng là một nhà vua. Sau khi ngộ đạo, Ngài phát tâm xuất gia và trở
thành vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng (Dharmàkara). Ngài quyết tâm tu hành
thành Phật và phát nguyện độ hết chúng sanh trong cõi Cực lạc của mình.
Ngài lập 48 lời nguyện giúp chúng sanh giải thoát.
Những nguyện quan trọng là nguyện thứ 18: "Ví
con được thành Phật, mười phương chúng sanh muốn sanh về cõi nước con
mà chí tâm tin mến niệm từ một niệm cho đến mười niệm, nếu không được
sinh thì con không thành bậc Chánh giác. Chỉ trừ những kẻ tạo tội ngũ
nghịch, hủy báng chánh pháp". Nguyện thứ 19: "Ví con được thành
Phật, mười phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức, dốc lòng
phát nguyện muốn sanh về cõi nước con, đến lúc mạng chung, ví con chẳng
cùng đại chúng vây quanh hiện thân trước người đó, thì con không thành
bậc Chánh giác". Nguyện thứ 20: "Ví con được thành Phật, chúng
sanh khắp mười phương nghe danh hiệu con, nhớ nghĩ quốc độ con, vun
trồng các công đức, rồi dốc lòng hồi hướng muốn sanh về cõi nước con,
nếu không được toại nguyện thì con không thành bậc Chánh giác" (Kinh Vô Lượng Thọ, Chân Thường dịch, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992).
Qua nội dung 48 lời nguyện cho thấy con
đường tu tập Tịnh độ dựa vào nguyện lực của Đức Phật A Di Đà và nhất tâm
niệm Phật là con đường tu dễ nhất, đó là lý do tại sao Tịnh độ tông
được truyền bá rộng rãi nhất.
* Con đường tu tập của pháp môn Tịnh độ dựa trên ba nguyên tắc:
1- Niềm tin (Tín)
Đây là điều kiện tiên quyết, không có
niềm tin hay niềm tin không đủ mạnh thì không thể tu Tịnh độ được. Sự
tin tưởng là nền tảng khởi lên ước muốn và hướng tâm về thế giới Cực
lạc. Như tất cả các pháp môn khác, niềm tin là mẹ của các thiện pháp và
phát sinh công đức.
Niềm tin của hành giả Tịnh độ rất rõ,
tin rằng Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc là có thực, Đức Phật và
Thánh chúng luôn sẵn sàng tiếp độ chúng ta, chỉ cần chuyên tâm tin tưởng
và niệm Phật quyết chí vãng sanh thì chắc chắn được vãng sanh. Vì vậy,
các kinh sách Tịnh độ và các hành giả Tịnh độ thường nói xác quyết chứ
không có thái độ lưỡng lự, phân hai.
2- Nguyện lực hay tâm mong muốn (Nguyện)
Niềm tin ổn định sẽ đưa đến ước muốn
vãng sanh gọi là ước nguyện. Mọi hoạt động tâm lý đều hướng về Tịnh độ,
mọi ước muốn đều được kích thích bằng sự nhàm chán đối với đời sống uế
trược và bất an này. Nếu ta còn ham muốn vật chất, tình cảm, tư tưởng
của cuộc đời này thì ước muốn vãng sanh không mạnh. Nghiệp liên kết với
đời sống này không giảm thì Tịnh độ không hấp dẫn ta được, nên có chán
Ta bà mới ước mong mãnh liệt về Tịnh độ được. Đó cũng là lý do tại sao
người lớn tuổi ưa tu Tịnh độ hơn là giới trẻ.
Biểu hiện của ước nguyện về Tịnh độ là
mọi hành vi, lời nói và tâm ý đều phải thể hiện ước nguyện đó. Với lời
nguyện mạnh mẽ từ bỏ uế độ vãng sanh Tịnh độ, mong có khả năng để cứu độ
chúng sanh. Tâm nguyện như vậy mới tương ứng với tâm nguyện của Tịnh
độ, mới có cảm ứng với Phật và Thánh chúng ở Cực lạc.
3- Hành trì (Hạnh)
Khi tâm nguyện hướng về Tịnh độ thì mọi
hành động, ngôn ngữ đều được tu tập liên tục, nghĩa là thực hành phương
pháp niệm Phật, quán tưởng... đều đưa đến hợp nhất thân khẩu ý, không để
cho các đối tượng của trần gian lôi kéo làm tâm bị tán loạn. Mọi công
đức, thiện pháp ta có đều hồi hướng về Tịnh độ, thường thì hành giả
thiết lập cho mình một thời khóa tu niệm, ví dụ như trong một ngày một
đêm chia thành sáu thời khóa để tụng niệm, tạo cho mình tiêu chuẩn niệm
bao nhiêu lần, nhờ hành trì mà hành giả có thể đắc định, thấy Phật và
Thánh chúng cõi Cực lạc.
III. Phương pháp niệm Phật
Mục đích của pháp niệm Phật A Di Đà là
đưa đến nhất tâm, chế ngự mọi vọng tưởng của tâm. Niệm Phật là thực hành
chánh niệm, như vậy về mặt bản chất, pháp môn niệm Phật không khác biệt
với thiền quán, là cốt lõi của các pháp môn.
Phương pháp niệm Phật có bốn cách:
1- Trì danh niệm Phật: Niệm danh hiệu Phật A Di Đà, hoặc niệm thầm hoặc phát âm thanh.
2- Quán tượng niệm Phật: Niệm Phật và
chăm chú nhìn vào tượng Phật, thấy rõ tướng tốt của Phật, hoặc tướng tốt
của các Bồ tát và Thánh chúng.
3- Quán tưởng niệm Phật: Quán tưởng hình
ảnh của Đức Phật A Di Đà cho đến khi thấy được linh ảnh của Đức Phật.
Pháp quán này khác với quán tượng là không sử dụng hình ảnh bên ngoài.
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đề cập đến 16 pháp quán.
4- Thật tướng niệm Phật: Niệm Phật đạt
đến chỗ vô niệm, không còn chủ thể và đối tượng. Pháp quán này mang sắc
thái Thiền hơn là Tịnh độ cho nên không phổ biến được.
Phương pháp tu Tịnh độ được nhiều người
chấp nhận và hành trì, nhất là Trì danh niệm Phật, ai thực hành cũng
được, có thể niệm lớn tiếng gọi là Cao thanh trì, niệm thầm gọi là Mặc
trì, mấp máy môi mà không ra tiếng gọi là Kim cang trì. Người xưa còn
đưa ra 4 sắc thái niệm Phật: Hòa hoãn niệm là niệm từ từ không cần gấp,
không nôn nóng, chỉ cần bền bỉ, có thể vừa làm việc vừa niệm Phật, không
cần "tu mau kẻo trễ"; thứ hai là Truy đảnh niệm, là đưa câu niệm
Phật nằm trên đỉnh cao của dòng tâm thức, nghĩa là niệm Phật luôn hiện
tiền, không bị chi phối bởi công việc, quyết chí cao, ấn định thời gian
và cần có kết quả rõ; thứ ba là Thiền định niệm, tức trụ tâm vào định
rồi sử dụng tâm định ấy mà niệm Phật. Đây là lối tu dựa trên cơ sở
truyền thống nguyên thủy, khi tâm đạt định, hướng tâm ấy về tam minh, ở
đây hành giả hướng tâm về cõi Tịnh độ và Đức Phật A Di Đà; thứ tư là
Tham cứu niệm, là cách niệm Phật ảnh hưởng thiền công án, như nêu câu
hỏi: Niệm Phật là gì? Sự nung nấu nghi tình đến đỉnh cao sẽ bùng vỡ ý
thức và giác ngộ. Sắc thái này mang dấu ấn của Thiền hơn là của Tịnh độ.
KẾT LUẬN
Tịnh độ tông chú trọng vào niềm tin của
cá nhân và sự cứu độ của Đức Phật A Di Đà. Pháp tu chủ yếu là niệm danh
hiệu Phật A Di Đà và quán tưởng đến thế giới Cực lạc. Đây là một tông
phái được phổ biến rộng rãi nhất và cũng được nhiều tông phái khác phổ
biến và hành trì. Pháp môn niệm Phật là con đường tu tập khá phù hợp với
nhiều căn cơ khác nhau. Thực ra, pháp môn niệm Phật có từ thời Phật
giáo Nguyên thủy, Đức Phật dạy các đối tượng quán niệm trong đó niệm
Phật là đứng đầu, vì đây là đối tượng dễ đưa tâm vào chánh niệm, trong
Phật giáo Nguyên thủy, ý nghĩa về Phật lực đã được bao hàm trong pháp
niệm Phật. Qua thời kỳ tiền Đại thừa, luận sư Nagasena (Na Tiên Tỳ kheo)
chủ trương thuyết cứu độ qua cuộc vấn đạo của vua Milinda (hoàng đế Hy
Lạp). Vua cho rằng không thể chấp nhận được khi một người ác lại được
cứu độ nếu y tin tưởng vào một vị Phật vào đêm trước ngày chết. Nagasena
đáp: "Một hòn đá dầu nhỏ cách mấy vẫn chìm trong nước, nhưng một tảng đá vẫn nổi trên nước nếu đặt lên thuyền".
Về sau, các luận sư Đại thừa triển khai triệt để hơn về thuyết Phật cứu
độ và qua kinh điển, Tịnh độ tông tiêu biểu rõ cho luận thuyết ấy.
Con đường giải thoát của đạo Phật căn
bản là ở tâm, tức là nỗ lực cá nhân, pháp môn Tịnh độ vẫn không ngoài
đường lối ấy, hòn đá lớn nhờ thuyền chở mà nổi trên nước, nhưng vận
chuyển hòn đá ấy lên thuyền phải là công phu tự thân, để có được 10 niệm
nhất tâm và sự cứu độ của Phật, hành giả phải có công phu tích lũy lớn,
nghĩa là có một quá trình tu tập. Sau này, khi các tông phái khác phát
triển đã ảnh hưởng đến tư tưởng Tịnh độ, nhất là tư tưởng Tịnh độ tại
tâm như "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ" làm cho pháp môn Tịnh độ có tính tự lực nhiều hơn nhưng có lẽ đó không phải là bản ý của Tịnh độ tông.
Để kết luận, xin dẫn lời bàn về niệm
Phật của nhà vua, Thiền sư Việt Nam thời Trần là Trần Thái Tông trong
tác phẩm Khóa hư lục: "Người niệm Phật có ba bậc: bậc thượng trí thì
tâm tức Phật chẳng nhờ tu chứng, thân Phật là thân ta không có hai
tướng, tánh tướng không hai, tịch mà thường còn, còn mà chẳng biết. Đó
là hoạt Phật. Bậc trung trí phải nương vào niệm Phật, chú ý chuyên cần,
niệm Phật không quên tự nhiên thuần thiện. Niệm thiện đã hiện niệm ác
liền tiêu. Niệm ác đã tiêu duy còn niệm thiện. Bởi niệm ý niệm niệm niệm
tất diệt. Khi niệm đã diệt, ắt về chánh đạo. Tới khi mạng chung được
vui Niết bàn. Bậc hạ trí thì miệng chuyên niệm lời Phật, tâm muốn thấy
tướng Phật, thân nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng không thoái
chuyển. Sau khi mạng chung thì nhờ thiện niệm đó được sinh sang nước
Phật, nghe Phật nói pháp mà chứng đạo Bồ đề" (Khóa hư lục, HT. Thanh
Kiểm dịch, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992). Ngài kết
luận ba hạng người trên đây sâu cạn khác nhau nhưng mục đích và kết quả
là một, tuy nhiên bậc thượng trí nói thì dễ làm thì khó, bậc trung trí
nếu chuyên cần nỗ lực sẽ thành tựu trong đời này nhưng nếu nghiệp nặng
chưa dứt thì khó thành tựu, bậc hạ trí lối tu lấy niệm Phật làm nấc
thang bước từng bước vững chắc được qua nước Phật rồi thì chí nguyện sẽ
thành. Vậy muốn thành tựu cái siêu việt phải bắt đầu bằng cái đơn giản.
Hòa thượng Thích Viên Giác
0 Kommentare:
Đăng nhận xét