"Thật vậy, không phải chỉ cần vơ vét
của cải vật chất cho thật nhiều là có thể tìm thấy hạnh phúc. Không phải những
người giàu sụ đương nhiên là những người hạnh phúc..."
Phần I
Dagpo Rimpoché
(Hoàng Phong chuyển ngữ)
(Hoàng Phong chuyển ngữ)
Lời giới thiệu của người dịch:
Khi vừa mới một tuổi thì Dagpo Rimpoché đã được Đức Đạt-Lai Lạt-Ma
thứ XIII xác nhận là vị hóa thân (toulku) của Ngài Mã-nhĩ-ba (Marpa, 1012-1097)
một vị Đại sư của Tây tạng và là thầy của Đại sư Mật-lặc Nhật-ba (Milarepa, 1052-1135).
Dagpo Rimpoché sinh năm 1932, vào chùa từ lúc sáu tuổi, học tại các tu viện đại
học danh tiếng nhất ở Tây tạng, tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Ngài rời Tây Tạng
vượt sang Ấn vào năm 1959 và sau đó thì lưu trú tại Pháp từ năm 1960. Hiện nay
Dagpo Rimpoché là một gương mặt lớn của Phật giáo Tây tạng tại Âu châu.
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một tài liệu ghi chép lại
buổi thuyết trình của ông ngày 19 tháng 9 năm 2003 tại một ngôi chùa Tây tạng
trên đất Pháp. Thông dịch viên : Marie-Stelle
Boussemart. Ghi chép : Laurence
Harié, Michel Langlois, Cathérine Baguet, Marie-Stella Boussemart.
Trong số quý vị đến đây hôm nay tôi
nhận ra một vài người đã đến nghe tôi thuyết giảng tại Genève cách đây khoảng hai
hay ba năm. Các vị khác thì có lẽ mới đến nghe lần đầu. Ngoài ra tôi cũng được gặp
lại vài người bạn cũ mà từ nhiều năm nay tôi chưa có dịp gặp lại. Thật vô cùng
vui sướng cho tôi được tiếp xúc tối nay với từng vị một.
Thật là một niềm hân hoan khi được
tiếp xúc với quý vị. Tuy nhiên nếu tôi chỉ biết hân hoan khi gặp lại bạn cũ và được
quen thêm bạn mới thì e rằng điều đó chưa tương xứng với tầm quan trọng của buổi
hội ngộ hôm nay. Tất nhiên là quý vị đã phải cố gắng rất nhiều để đến đây tham
dự, như vậy để có thể bù đắp được phần nào cho sự cố gắng ấy thì tôi phải làm gì
đây để mang lại một chút gì thiết thực mà quý vị có thể đem ra áp dụng vào đời
sống thường nhật, hoặc biết đâu cũng có thể áp dụng được ngay tối nay.
Chúng ta sẽ bàn luận với nhau về một
vài quan điểm. Tuy nhiên điều quan trọng hơn hết vẫn là niềm ước mong quý vị có
thể rút tỉa được từ cuộc bàn luận này một vài ứng dụng trong đời sống gia đình,
trong sự giao tiếp với bè bạn, đồng nghiệp... Nếu những quan điểm mà chúng ta sắp
trao đổi rồi đây sẽ có thể góp phần tích cực để cải thiện phần nào cuộc sống hằng
ngày giúp cho quý vị giao tiếp dễ dàng hơn với những người chung quanh thì thật
là không có gì mong mỏi hơn.
Muốn thực hiện được những mong mỏi
này thì chúng ta phải hội đủ một số điều kiện cần thiết nào đó. Tuy nhiên dù
cho chúng ta có khả năng hội đủ được những điều kiện tất yếu ấy đi nữa thì trước
hết và ngay trong lúc này quý vị và cả tôi phải tạo ra một "thể dạng tâm thức lợi ích". (état d'esprit bénéfique)
Vậy thì thế nào là một " thể dạng tâm thức lợi ích" ?
Thể dạng tâm thức đó không nhất thiết phải được thực hiện trong khuôn khổ của một
tôn giáo hay một tín ngưỡng nào cả. Tuy nhiên nếu có thể hình dung được trong lãnh
vực của một tín ngưỡng thì vẫn tốt hơn, mặc dầu cũng có thể đặt thể dạng tâm thức
đó vào một bối cảnh tổng quát và toàn cầu hơn. Trong trường hợp có thể giới hạn
nó trong khuôn khổ của một tôn giáo thì một người Phật tử đương nhiên sẽ phải hiểu
rằng tạo ra một thể dạng tâm thức đúng như mong muốn có nghĩa là tạo ra một dòng
tư duy thật minh bạch. Những người Phật giáo đang ngồi trong gian phòng này tất
nhiên sẽ hiểu tôi muốn nói đến điều gì. Các vị khác có thể là người Thiên Chúa
giáo hoặc cũng có thể không theo một tôn giáo nào cả, nhưng dù trong bất cứ trường
hợp nào thì tất cả đều có thể tự tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức lợi ích,
tức là một tâm thức biết quan tâm đến hạnh phúc của mọi người và của cả ta nữa.
Chúng ta tự nhủ rằng : "Trong lúc này đây tôi đang được hưởng mọi sự an lành,
vì thế trong lúc mà những điều kiện tốt đẹp đang hội đủ thì tôi cũng muốn nhân
đấy mà làm được một điều gì ích lợi cho thật nhiều người và cả cho tôi". Một
người Phật giáo sẽ phải nghĩ rằng : "Tôi vẫn hằng ước mơ giúp đỡ người khác
một cách thiết thực vì thế mà tối hôm nay tôi cố gắng đến đây nghe giảng để biết
đâu nhờ đó mà tôi sẽ thực hiện được những gì tôi ước mơ". Suy nghĩ như thế
tức là biết tự đặt mình vào một thể dạng tâm thức lợi ích. Thể dạng tâm thức ấy
sẽ mang lại những thành quả cụ thể và hết sức lớn lao cho quý vị.
Vậy thì mỗi người trong chúng ta trước
hết nên tạo ra cho riêng mình một thể dạng tâm thức lợi ích. Sau đó thì chúng
ta sẽ cố gắng tìm hiểu nhau, vì nếu tôi chỉ biết nhắm mắt thuyết giảng những điều
tối mịt rồi chẳng ai hiểu gì cả thì thật là hoài công cho quý vị và cho cả tôi.
Vì thế chúng ta nên thảo luận với nhau như thế nào để mỗi vị đều có thể hiểu được
một cách minh bạch từng điểm một, vì sẽ thật đáng tiếc là nếu ngày mai đây khi quý
vị gặp bạn bè và nói với họ rằng : "Tôi hôm qua tôi có đi dự một buổi diễn
thuyết, người ta giới thiệu diễn giả là một vị lạt-ma Tây tạng, nhưng thật ra thì
suốt một tiếng hay một tiếng rưỡi đồng hồ ông ta nói cho có nói vậy thôi. Xin đừng
hỏi tôi rằng ông ấy nói gì vì tôi chẳng nhớ gì hết. Chỉ toàn là những chuyện mơ
hồ chẳng có ai hiểu gì cả". Nếu đúng như thế thì quý vị đã đánh mất thì giờ
một cách vô ích.
Tôi xin đề nghị ngay với quý vị các phương
pháp giúp chúng có thể bàn thảo với nhau một cách hiệu quả. Trước hết chúng ta
nên tìm cách tránh bớt những tình trạng bất lợi, chẳng hạn như tôi cứ nói, người
thông dịch cứ dịch, quý vị thì cứ nghe, nhưng thật ra thì chẳng có gì lọt vào
tai quý vị. Như thế thật đáng tiếc, và để khỏi rơi vào tình trạng đó, trước hết
tôi sẽ trình bày một số quan điểm và sau đó thì xin quý vị cứ mạnh dạn phát biểu
và nêu lên các thắc mắc. Nếu đủ sức trả lời thì tôi sẽ rất vui mà trả lời ngay.
Nếu các thắc mắc của quý vị vượt quá tầm hiểu biết của tôi thì tôi cũng sẽ xin
thành thật thú nhận. Ngoài ra hôm nay cũng thật may mắn cho chúng ta là có một
vài người Tây tạng cùng tham dự trong gian phòng này nếu cần thì tôi cũng có thể
nhờ họ giúp được.
Ngoài ra tôi cũng muốn nói rõ thêm là
nếu như quý vị không có câu hỏi nào để đặt ra thì tôi cũng sẽ có nhiều câu hỏi
để nêu lên với quý vị đấy.
Vậy thì chúng ta hãy đi thẳng vào vấn
đề : ta phải chuẩn bị cho cái chết của
chính mình như thế nào? Thật ra thì chuẩn bị cho cái chết lại có nghĩa là phải
tập sống thế nào để tạo ra cho kiếp nhân sinh này được tốt đẹp hơn và để kiếp sau
sẽ tái sinh trong những hoàn cảnh hạnh phúc hơn. Thiết nghĩ rằng nếu muốn trình
bày thỏa đáng một chủ đề bao quát như thế thì bắt buộc chúng ta phải tìm hiểu cặn
kẽ toàn bộ những lời giảng huấn của Đức Phật. Vì thế trong phạm vi một buổi nói
chuyện như hôm nay chúng ta đành phải tóm lược và đơn giản vấn đề đi rất nhiều.
Nếu vậy thì chúng ta hãy đặt lại câu
hỏi ngắn gọn hơn : tại sao người ta lại
chết ? Câu trả lời thật là đơn giản : chỉ
vì người ta đã được sinh ra, chỉ có thế thôi. Nói một cách khác và bằng những
thuật ngữ khác thì sẽ là : chúng sẽ phải
chết bởi vì chúng ta là những hiện tượng cấu hợp, tạo ra từ sự kết hợp của nhiều
thành phần, sự kết hợp ấy liên hệ đến một số nguyên nhân và điều kiện nào đó. Trong từng giây phút một, các cấu hợp biến
đổi không ngừng, và các biến đổi ấy một lúc nào đó sẽ kết thúc bằng một hiện tượng
mà người ta gọi là cái chết.
Cách nay khoảng 2700 năm, Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni đã giảng rằng bất cứ một hiện tượng cấu hợp nào cũng đều là vô
thường. Đức Phật đã khám phá ra quy luật đó nhờ vào sự suy nghiệm trong tri thức
của Ngài, căn cứ vào những gì Ngài quan sát được và các kết quả suy tư của Ngài.
Ngày nay thì khoa học và kỹ thuật có thể sử dụng các phương pháp thực nghiệm để
chứng minh điều đó một cách dễ dàng.
Chúng
ta không thể làm gì khác hơn là phải chết bởi vì chúng ta đã được sinh ra. Như vậy đối với Phật giáo thì sinh đươc
định nghĩa như thế nào ? Sinh có nghĩa là giây phút xảy ra thụ thai : đó là lúc
hai tế bào của cha và của mẹ kết hợp lại và đồng thời thâm nhập vào đó một dòng
tiếp nối liên tục tâm thần (continuum mental) hay tri thức (conscience-conciousness).
Tóm lại thụ thai hay sự sinh xảy ra khi dòng tiếp nối liên tục tâm thần thâm nhập
vào sự kết hợp giữa hai tế bào của cha và của mẹ.
Theo quan điểm Phật giáo thì bất cứ một
vật thể nào cũng đều được cấu tạo bởi vô số các thành phần kết hợp lại với
nhau. Đúng vào giây phút thụ thai tức là giây phút mà bào thai được cấu tạo thì
năm thứ cấu hợp (1) cũng xuất hiện và dựa vào đó một cá thể cũng được hình thành.
Từ sự kết hợp đó phát sinh ra sáu cơ sở hiểu biết (2) và bốn thành phần (3). Tất
cả gồm có hai mươi bốn chất liệu vật chất tạo ra cơ sở chuyển tải dòng lưu chuyển
của tri thức, và dòng tri thức lại bám víu vào cơ sở chuyển tải ấy và xem đấy là
của nó. Đấy là căn bản sơ khởi tạo ra một cá thể. Cái cá thể ấy lại tiếp tục biến
dạng, lớn lên và phát triển thêm. Nhờ vào cơ sở vật chất dòng tiếp nối liên tục
của tri thức cũng phát triển theo để đảm trách những sinh hoạt ngày càng phức tạp
hơn. Đấy là gì mà người ta gọi là sự sống, nó tương ứng với khoảng thời gian mà
dòng tiếp nối liên tục tâm thần còn sử dụng một cơ sở vật chất để chuyển tải nó.
Tuy nhiên các thành phần vật chất cũng
là những cấu hợp, vì thế không những chúng biến đổi trong từng giây phút một mà
chúng còn phải gánh chịu hiện tượng già nua và hao mòn. Sau một khoảng thời
gian nào đó có thể dài hay ngắn thì các thành phần kết hợp lúc thụ thai sau khi
đã phát triển trong suốt cuộc sống sẽ bắt đầu suy thoái. Các thành phần vật chất
suy thoái dần và khả năng chuyển tải dòng tiếp nối liên tục tâm thần của chúng
cũng theo đó mà suy giảm đi. Dòng tiếp nối liên tục tâm thần vì thế cũng trở nên
"thu hẹp" hơn và mất đi một số tính năng, và các tính năng này cũng sẽ
tiếp tục tan biến dần. Cuối cùng thì đến một lúc nào đó cơ sở vật chất sẽ suy
thoái đến độ không còn đủ sức chuyển tải dòng tiếp nối liên tục tâm thần nữa.
Dòng tiếp nối tâm thần bắt buộc phải rời bỏ cơ sở vật chất của nó, và chính vào
thời điểm ấy thì cái chết sẽ đến với sự sống hiện tại này.
Vậy thì cái chết là sự tách rời giữa
tri thức (hay dòng tiếp nối liên tục tâm thần) và cơ sở vật chất. Theo quan điểm
Phật giáo thì dòng tiếp nối liên tục đó không chấm dứt. Dù nó không thể tiếp tục
lưu trú trong cơ sở vật chất thô thiển nữa nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại. Tùy
theo trường hợp, nó có thể chuyển sang một thể dạng trung gian gọi là bardo
(trung ấm) hay là không. Dầu sao đi nữa thì nó sẽ hướng vào một sự tái sinh mới.
Nó hướng vào một cơ sở vật chất mới, thâm nhập vào đấy và làm phát sinh ra một
sự thụ thai mới, tức là điểm khởi đầu của một cuộc sống mới. Cuộc sống mới ấy sẽ
kéo dài một thời gian nào đó và rồi cũng sẽ chấm dứt, và cứ tiếp tục như thế.
Người ta gọi đấy là chu kỳ của những sự hiện hữu phát sinh do điều kiện, nghĩa
là do nghiệp mà ra (4). Thật ra thì những
gì xui khiến dòng tiếp nối liên tục của tri thức hướng vào một cơ sở vật chất cá
biệt nào đó không tùy thuộc vào quyết tâm của một cá thể - ít ra thì đây cũng là
trường hợp của những cá thể bình thường -
mà duy nhất do sự tác động của nghiệp mà cá thể ấy đã tích lũy từ trước.
Đối với một người chấp nhận sự tái
sinh thì khi cái chết gần kề sẽ hiểu rằng tâm thức của mình sẽ rời bỏ cơ sở vật
chất của nó. Dòng tiếp nối liên tục tâm thần của mình sẽ tiếp tục tồn tại, vậy
trong giây phút đó những gì quan trọng hơn hết ? Có phải là thân xác mình, của
cải, gia đình, danh vọng hay uy quyền...? Tất cả những thứ ấy không có một giá
trị nào cả, vì người sắp ra đi sẽ bỏ lại tất cả những thứ ấy.
Chỉ
có dòng tiếp nối liên tục tâm thần là tồn tại và những gì mà nó có thể mang
theo là những vết hằn (của nghiệp) đã in sâu vào nó. Những gì tiếp tục tồn tại
và kéo dài từ kiếp sống này sang kiếp sống khác trên dòng liên tục tâm thần chính
là nghiệp của chúng ta. Dù đấy là nghiệp tốt hay nghiệp xấu thì cũng đều gom
lại thành một tổng hợp các vết hằn hay là các tiềm năng hay xu hướng mà dòng tiếp
nối tâm thần sẽ mang theo với nó. Đối với quý vị nào trước đây chưa hề hiểu nghiệp
là gì thì cũng xin giải thích thêm đấy là những xu hướng tích tụ trên dòng tiếp nối liên tục tâm thần. Những xu
hướng ấy mang tính cách "tích cực" khi chúng có khả năng mang lại những
giác cảm hạnh phúc, những cảm nhận về hạnh phúc. Ngược lại thì những nghiệp
"tiêu cực" là những vết hằn
hay những tiềm năng lắng đọng trong tâm thức mà chúng sẽ mang lại những cảm nhận
khổ đau.
Chủ đề buổi nói chuyện tối nay là
"Chuẩn bị cho cái chết". Vậy
chúng ta hãy đi thẳng vào chủ đề đó. Chúng ta hãy xét xem điều gì có thể giúp
ích cho chúng ta khi hấp hối và khi phải hướng vào một sự tái sinh mới. Có rất
nhiều phương pháp kể cả một lô các phương pháp đặc thù của Phật giáo. Tuy nhiên
không cần bắt buộc phải là một người Phật giáo mà chỉ cần tin có sự tái sinh thì
cũng đủ để hiểu rằng cái chết không phải là một sự chấm dứt vĩnh viễn vì sau đó
sẽ còn phải hướng vào một sự tái sinh mới, và trong trường hợp đó thì bất cứ ai
cũng đều hiểu rằng cái thể dạng tâm thức cuối cùng đúng vào lúc sắp chết sẽ giữ
một vai trò vô cùng quan trọng. Nếu vào giây phút đó ta tạo ra cho mình một thể
dạng tâm thức tốt thì nó sẽ giúp ta hướng vào một sự tái sinh thuận lợi.
Nói một cách khác là ta phải làm thế
nào để gợi lên cho ta một thể dạng tâm thức lợi ích đúng vào lúc mà ta sắp chết.
Phương pháp ấy có thể áp dụng cho bất cứ ai, không nhất thiết phải là người Phật
giáo mới làm được. Bất cứ ai cũng có thể là một người tốt được, dù cho họ theo
một tín ngưỡng nào cũng vậy. Dù đứng trên quan điểm nào thì bất cứ ai cũng đều
có thể tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức đầy yêu thương và từ bi hay đức
tin vào lúc hấp hối. Vậy đối với Phật giáo thì ý nghĩa của tình thương là gì ? Tình
thương hiểu theo Phật giáo là mong cầu hạnh phúc cho người khác. Nếu trong lúc
hấp hối mà ta đủ sức gợi lên trong tâm trí mình một lời nguyện cầu đơn giản như
sau : "Tôi chỉ cầu mong sao cho tất cả chúng sinh đều được hạnh phúc
!", tức là " Tôi chỉ ước mong làm sao để giúp cho tất cả chúng sinh đạt
được hạnh phúc", thì lời nguyện cầu đó sẽ hướng ta vào một sự tái sinh tốt
đẹp. Từ bi chính là ước vọng tất cả chúng sinh loại bỏ được khổ đau. Chẳng hạn
như những ước vọng như sau đây : "Tôi cầu mong tất cả chúng sinh vượt
thoát khỏi khổ đau, cầu xin cho họ đạt được một tâm thức luôn luôn an bình không
còn phải chiến đấu với khổ đau". Bất cứ một thể dạng tâm thức đạo hạnh nào
cũng thế, dù đấy là đức tin hướng vào một vị Trời, vào Đức Phật hay là một vị
Thầy tâm linh, thì cũng đều mang lại hiệu quả. Mọi thể dạng tâm thức lợi ích đều
giúp cho cái chết được thanh thản và hướng vào một sự tái sinh thuận lợi. Một thể
dạng tâm thức lợi ích không nhất thiết phải được quy định trong một khuôn khổ
hay một giới hạn nào cả mà có thể mở ra thật rộng lớn, chẳng hạn như ta có thể
nguyện cầu như sau : "Tôi cầu mong cho hòa bình sẽ tỏa rộng và bao trùm lên
cả thế gian này. Cầu mong sao cho tất cả nhân loại trên địa cầu đều được an bình.
Ước mong sao cho tất cả mọi xung đột dù đang tác hại ở bất cứ nơi nào trên hành
tinh này cũng đều sẽ chấm dứt". Ta cũng có thể ước mong như sau : "Nếu
trong kiếp sống này tôi không thể giúp được nhiều chúng sinh như tôi hằng nguyện
cầu thì xin cho tôi được tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi hơn để có thể giúp
được nhiều chúng sinh hơn nữa".
Ngoài ra cũng không nên quên rằng chúng
ta phải làm sao để thể dạng tâm thức lợi ích đó được hiển hiện khi mà chúng ta
vẫn còn thì giờ, tức là không nên chờ đợi đến giây phút chót khi quá trình của
cái chết đã bắt đầu xảy ra . Cái chết sẽ xảy ra khi cơ sở vật chất trở nên quá suy
yếu hoặc rơi vào một tình trạng quá tệ hại không còn đủ sức chuyển tải được tâm
thức nữa. Tuy nhiên thì trước đó cũng sẽ qua một giai đoạn mà cơ sở vật chất trở
nên suy thoái thật nặng nề và tâm thức không còn sử dụng được các khả năng của
nó một cách bình thường như trước, thì trong tình trạng đó tâm thức sẽ rơi vào
một trạng thái trung hòa (mê man). Vì thế phải hành động ngay để tạo ra một thể
dạng tâm thức tích cực và lợi ích trước khi nó rơi vào tình trạng trung hòa như
trên đây. Phải làm hiển hiện thể dạng tâm thức lợi ích trước khi đến giai đoạn suy
thoái nặng nề thì thể dạng lợi ích ấy mới có thể tác động và ảnh hưởng đến tình
trạng tâm thức trung hòa khi đã gần kề cái chết. Thể dạng tâm thức lợi ích sẽ
giúp tăng cường thêm sức mạnh cho các nghiệp tích cực và cũng từ đó sẽ hướng vào
một sự tái sinh thuận lợi.
Những điều vừa được trình bày trên đây
có thể xem là kết quả mang lại từ một sự chuẩn bị thật lâu dài, có nghĩa là từ khi
mà ta còn đang khoẻ mạnh. Không phải chờ đến lúc hấp hối ta mới bắt đầu tập thương
yêu người khác và làm hiển hiện lên trong ta lòng từ bi. Tình thương và lòng từ
bi chỉ có thể hiển hiện lên trong lúc nguy kịch khi mà chúng đã được thấm nhuần
từ trước bằng những cố gắng lâu dài. Nói một cách khác là ta nên tập luyện ngay
bây giờ để quen dần với thể dạng tâm thức đó dù đấy là tình thương yêu, lòng từ
bi, đạo đức, hay đức tin cũng thế. Phải tập thế nào để tất cả những thứ ấy trở
thành thói quen và chúng sẽ tự động hiển hiện lên vào giây phút mà ta sắp ra đi.
Khi phải đối đầu với những thử thách
khó khăn tức vào những lúc sắp gặp nguy cấp thì các phản ứng dưới các thể dạng
tâm thức quen thuộc nhất thường sẽ được biểu lộ. Phản ứng của một đứa bé là một
thí dụ điển hình hơn cả. Khi đứa bé cảm
thấy nguy hiểm thì tiếng kêu cứu đầu tiên phát ra từ miệng nó là tiếng gọi :
"Mẹ ơi !". Đơn giản chỉ vì mẹ là người thân thiết nhất của nó, gần
gũi nhất với nó, luôn hiện hữu trong tâm thức nó. Chỉ cần vấp ngã hay va đầu
vào vật gì làm cho nó đau đớn thì nó khóc và kêu lên : "Mẹ ơi !".
Phải chọn lựa một thể dạng thích hợp
nhất với bản tính của mình để làm hiển hiện ra trong tâm thức - chẳng hạn như tình
nhân ái, tình thương yêu người khác, v.v... - phải luyện tập thường xuyên để giúp
chúng ngày càng vững mạnh hơn. Tập như
thế cho đến khi nào thể dạng tâm thức đó trở thành một phản ứng tự nhiên và đột
phát khi ta phải bất thần đối đầu với những tình huống đang xảy ra. Ta có thể tập
luyện để phát huy tâm thức ấy, dù cho trên thực tế ta không thể giúp đỡ người
khác một cách cụ thể đi nữa. Chỉ cần tạo được thói quen trong tâm thức luôn luôn
nghĩ đến người khác, lúc nào cũng cảm thấy gần gũi với người khác và trực tiếp
liên đới với hạnh phúc của người khác. Như thế đến khi hấp hối thì những ý nghĩ
và xúc cảm đó sẽ hiển hiện lên một cách tự nhiên trong tâm thức ta.
Không phải cứ chuyên cần tập luyện
theo các giờ giấc đều đặn trong ngày là đủ mà đúng hơn phải cố gắng hơn thế nữa
để theo dõi tư duy hiển hiện ra trong tâm thức mình vào bất cứ lúc nào. Chúng ta
không ngừng múa may tay chân, nói năng huyên thiên, đàm thoại với hết người này
đến người khác, đi tới rồi lại đi lui... Nên cố gắng nhìn lại chính mình gần
hơn để nhận thấy mình và thốt lên : "À thì ra không ngờ trong đầu lại có lắm
thứ tư duy đến thế, thật là nhiều và đủ loại và chúng đang bộc phát ra trong
tâm thức ta. Một số thì tốt, một số thì kém hơn, hoặc có thể rõ ràng vô phương
chối cãi là rất tệ hại, hoặc một số khác thì chỉ có tính cách trung hòa". Khi
ta có thể nhận biết và phân loại được chúng thì đó là lúc mà ta đã đạt được một
bước tiến bộ rồi đấy. Cả ba thể loại tư duy ấy đều là những gì thật tự nhiên,
tuy thế nếu khi nào đã đủ sức phân loại được tư duy nào là tốt, xấu hay trung hòa,
thì cũng nhân đó mà so sánh tỷ lệ xuất hiện của chúng trong đầu ta ra sao để xác
định xem ta có xu hướng tốt một cách tự nhiên, hay ngược lại ta chỉ là một người
có xu hướng xấu hoặc trung hòa. Sau khi xác định được như thế ta phải cố cảnh
giác trong từng giây phút một trong cuộc sống để chủ động tâm thức mình, kiểm soát
những tư duy của mình. Cuộc sống thường nhật buộc ta phải nói năng với người khác,
dù những lời đàm thoại đó mang nội dung như thế nào thì ta cũng nên tự hỏi tại
sao ta lại thốt lên những lời như thế. Nếu nhận thấy rằng những lời mà ta thốt ra
mang chủ đích mong muốn người đối thoại được hạnh phúc và trong lòng ta cầu
mong cho họ gặp được những điều tốt đẹp, như thế thật không còn gì để nói thêm
! Nếu trong trường hợp ta phải nói một cách máy móc vì nghề nghiệp để thực hiện
một công việc nào đó, thì chủ đích những lời nói ấy chỉ mang tính cách trung hòa.
Tuy nhiên nếu ta ngỏ lời với một người nào đó mà lại chỉ cầu cho họ gặp những điều
bất hạnh và trong thâm tâm ta chỉ muốn làm hại người ấy, thì đấy thật rõ ràng là
không tốt. Nếu nhận biết được như thế thì dần dần về sau chúng ta cũng sẽ không
phát ra những ngôn từ thuộc vào loại đó nữa, tức là những ngôn từ bề ngoài không
nhất thiết là xấu, nhưng bên trong thì lại tiềm ẩn những ý đồ tiêu cực.
Khi đã quen với sự cảnh giác để luôn
luôn tự hỏi chủ đích của mình là gì, thì đến một lúc nào đó ta sẽ có thể chủ động
hoàn toàn được tâm thức của mình và cả những hành động phát sinh từ thân xác của
mình nữa.
Phải thú nhận rằng hầu hết chúng ta không
mấy ai có thể tự cho rằng mình hoàn toàn được tự do, bởi vì chưa ai có thể bảo đảm
rằng mình có thể hành động theo đúng như ý mình muốn. Thật sự mà nói là ta vẫn thường
xuyên bị tâm thức khống chế, nó chỉ huy và ra lệnh cho ta phải hành động theo
những quyết định của nó. Nhưng nếu nghĩ kỹ thì chính tâm thức ta cũng lại bị nô
lệ bởi sự khống chế của những yếu tố bấn loạn, sự yếu đuối và các thứ dục vọng
của chính nó. Chính đấy là những gì đã đứng ra điều khiển nó ! Hãy lấy thí dụ về
sự giận dữ, và tiếc thay đôi khi chúng ta vẫn còn giận dữ, và khi đã giận dữ
thì ta sẽ hoàn toàn bị nó khống chế. Khi cơn giận đã bộc phát ra rồi thì ta
không thể cưỡng lại được nữa. Nó kiềm tỏa tất cả và chỉ huy mọi tư duy của ta, xúi
dục ta phạm vào những hành động mà chính ta không muốn. Kích động bởi sự giận dữ,
ta sẽ phát ra những ngôn từ làm mếch lòng người khác, chỉ trích và nguyền rủa
người khác, thế rồi ta không còn tự chủ lấy mình được nữa.
Đừng nghĩ rằng trong thoáng chốc là
ta có thể loại bỏ được sự giận dữ vì giận dữ là một thành phần của tâm thức, tiềm
ẩn trong tâm thức và đã quen tác oai tác quái quá lâu đời. Ta đâu có thể loại bỏ
chúng dễ dàng như thế được.
Trước hết ta phải tập khám phá thật
sớm sự xuất hiện của giận dữ. Nếu thấy nó vừa ló dạng thì tức thời ta phải tự cảnh
giác ngay vì biết rằng sự bực bội đang tìm cách xâm chiếm ta và nếu cứ để cho nó
bùng lên thì ta sẽ không còn cưỡng lại được nữa. Ý thức được điều đó có nghĩa là
ta đã đạt được một bước tiến đáng kể. Nếu tiếp tục tập luyện theo cách đó thì dần
dần ta cũng sẽ loại bỏ được các yếu tố bấn loạn, chẳng hạn như sự giận dữ, đồng
thời lại phát huy được các phẩm tính tốt của mình, và rồi ta sẽ cảm thấy hạnh
phúc hơn.
Một người dễ nổi nóng sẽ thường xuyên
gây ra tình trạng căng thẳng và xung đột với những người chung quanh, suốt ngày
họ cãi vã trong gia đình, với đồng nghiệp và họ hàng, họ chẳng bao giờ biết an vui
là gì. Đối với trường hợp như thế thì cách tập luyện trên đây sẽ giúp họ làm giảm
bớt sự nóng giận. Sự giao tiếp với người chung quanh do đó cũng sẽ được cải thiện
hơn và cuộc sống hằng ngày cũng sẽ thay đổi tốt hơn: họ cảm thấy an vui hơn, công
việc mang lại nhiều kết quả hơn...
Nói một cách khác, nếu muốn chuẩn bị
cho cái chết thì ngay lúc này trong cuộc sống thường nhật ta cũng nên bắt đầu tập
cho quen dần với các thể dạng tâm thức lợi ích, và các thể dạng lợi ích ấy cũng
sẽ mang lại cho ta nhiều điều cải thiện trong cuộc sống hằng ngày của ta. Ta
nên sống như thế nào để đến lúc lâm chung thì thể dạng tâm thức thuận lợi sẽ đến
với ta một cách tự nhiên. Nếu không đủ sức tạo cho mình một cuộc sống như thế,
thì ít ra cũng cố tránh không để cho tâm thức bị dao động và tràn ngập bởi sự giận
dữ hay bám víu. Một tâm thức an bình sẽ trợ giúp cho ta hay cho bất cứ ai trong
giây phút hấp hối. Vì thế, khi đang ở cạnh người sắp ra đi thì ta phải tránh tất
cả những gì có thể làm cho người ấy bị rối loạn hay dao động tức là tránh tạo
ra cho họ một thể dạng tâm thức tiêu cực. Cố gắng giúp họ tạo ra một thể dạng tâm
thức lợi ích và tích cực. Nếu biết được họ theo tôn giáo nào thì cứ nhắc đến tín
ngưỡng của họ, giúp họ phát lộ đức tin. Dù trong bất cứ trường hợp nào thì cũng
cố gắng giúp người hấp hối yên lòng, nhắc cho họ biết là họ đã sống một cuộc sống
trọn vẹn, đã làm được nhiều điều tốt đẹp, mục đích là giúp cho họ ra đi trong
an bình và mãn nguyện, dù cho những lời khuyên nhủ của ta có đúng với sự thật
hay không. Ngay cả trong trường hợp mà ta biết là người ấy có một cuộc sống không
mấy tốt lành đi nữa thì ta cũng không nên nhắc đến những gì kém tốt đẹp trong
cuộc sống trước đây của họ. Trái lại phải an ủi họ, nói với họ là họ đã từng làm
hết sức mình, đã thực hiện được nhiều điều tích cực trong đời họ và giờ đây thì
họ có thể yên lòng ra đi. Phải cố gắng giúp họ ra đi thật thanh thản và êm ả.
Ta cũng phải cẩn thận trong từng cử
chỉ, phải chú ý đến sự dịu dàng trong từng lời nói để cho người hấp hối vững
tâm . Không nên tỏ ra bồn chồn hay khóc lóc, không nên nói lớn tiếng, cũng không
nên lay người hấp hối. Tiếc thay đó lại là phản ứng rất thường thấy của những
người thân thuộc chung quanh. Đôi khi người thân ôm người hấp hối vào lòng. Một
số người thường có những cử chỉ như thế, họ ôm người hấp hối và thốt lên :
"Không, đừng ra đi, hãy ở lại với chúng tôi...". Nên tránh những cử
chỉ thô bạo như thế. Trái lại phải làm thế nào để tạo ra một bầu không khí êm dịu,
thanh thản và an bình chung quanh người sắp ra đi, bằng một giọng thật thấp hãy
nói với người hấp hối những lời lẽ ngọt ngào.
Tóm lại, tất cả chúng ta đều ước
mong đạt được hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau. Vậy nếu muốn thực hiện được điều
đó thì phải tìm hiểu chính mình, theo dõi được những gì đang diễn biến trong tâm
thức của mình. Dù ta đang hạnh phúc hay khổ đau thì cả hai thể dạng ấy đều phát
sinh từ rất nhiều nguyên nhân và điều kiện, và những nguyên nhân và điều kiện
chính yếu hơn hết tạo ra các thể dạng ấy lại tùy thuộc vào tâm thức của chính mình,
phát sinh từ tâm thức của chính mình. Tạo ra những thể dạng tâm thức tích cực sẽ
mang lại cho ta sự thư giãn và hạnh phúc và cũng sẽ giúp cho ta làm giảm bớt tác
động của những thể dạng tâm thức tiêu cực mang lại khổ đau. Thực hiện được như thế là cách giúp cho ta chuẩn
bị cho lúc lâm chung và đồng thời cũng tạo ra những tác động tích cực ngay
trong cuộc sống thường nhật của ta trong lúc này.
Cách tập luyện vừa trình bày trên đây
không nhất thiết là những gì đặc thù dành riêng cho Phật giáo, mà bất cứ ai cũng
có thể tập được, không cần phải tin vào một tôn giáo nào cả. Bất cứ một sinh linh
nào hàm chứa một tâm thức đều nên tìm hiểu chính mình để chủ động lấy tâm thức
của mình.
Thật vậy, không phải chỉ cần vơ vét
của cải vật chất cho thật nhiều là có thể tìm thấy hạnh phúc. Không phải những
người giàu sụ đương nhiên là những người hạnh phúc. Hạnh phúc không nhất thiết lệ
thuộc vào của cải và những gì ta chiếm hữu, mà tùy thuộc vào những tư duy đang
diễn biến trong tâm thức của mình. Dù thật giàu có nhưng ta lại không đủ sức tạo
ra cho mình một khả năng cảm nhận đúng đắn về mọi sự vật thì của cải của ta
cũng sẽ không thể cứu ta thoát khỏi những khổ đau khủng khiếp. Có những người
giàu có nhưng lại vô cùng khổ sở không đủ nghị lực để vượt lên những hành động tuyệt
vọng, như tự tử chẳng hạn. Những chuyện đại loại như thế vẫn thường xuyên được
báo chí đưa tin. Ngược lại, có nhiều người phải đối đầu với những khó khăn vật
chất, sống trong hoàn cảnh khiêm tốn, nhưng lại tỏ ra hết sức hạnh phúc, chẳng
qua đấy là vì họ biết nhìn mọi sự một cách khác hơn.
Chủ đề nêu lên được trình bày khá
bao quát và có phần vắn tắt. Vậy có quí vị nào cần hỏi thêm hay chăng ?
0 Kommentare:
Đăng nhận xét