"Khi tâm thấy người này đúng, người
kia sai thì ta sẽ ưa người (đúng) này và ghét người (sai) kia. Tiếp theo
ta muốn gần gũi thân cận (thủ) người đúng và xa lánh ghét bỏ (xả) người
sai..."
(Tiếp theo)
Thích Trí Siêu
6.
Vấn đề của Ý
Ý là đầu dây mối nhợ của phiền não,
là anh cả trong Ba Mình. Chúng ta sống hạnh phúc hay khổ đau đều từ Ý mà
ra. Ý luôn hoạt động không ngừng (trừ khi ta ngủ mê), nó suy nghĩ cái
này, tưởng nhớ cái kia, suy tư, phán xét, lo lắng, v.v... Nhiều lúc ta
muốn nó nghỉ một chút cho ta khỏe, nhưng nó vẫn tiếp tục làm việc. Ý
thức làm việc rất siêng năng, đến nỗi nó có thể làm cho ta phát khùng
hay điên lên được, phải uống thuốc an thần, thuốc ngủ hoặc lấy súng bắn
vào đầu thì nó mới yên.
Vọng tưởng
Trên văn tự, vọng có nghĩa là sai,
tưởng là những ý tưởng hay nhận thức. Vọng tưởng có nghĩa là ý nghĩ sai
lầm. Ban đêm đi một mình trên đường vắng, ánh trăng lờ mờ chiếu xuống
một lùm cây, nhìn vào đó ta tưởng là ma rồi hoảng hồn ù té chạy. Bóng
cây mà tưởng là ma.
"Trong ngôn ngữ thông dụng hàng
ngày, chữ tưởng thường được hiểu là tưởng lầm. Tôi tưởng hôm nay trời
đẹp, hóa ra trời xấu. Tôi tưởng anh đến hôm qua, ai dè hôm nay anh mới
đến. Tôi tưởng sự vật như thế này, nhưng thực tế sự vật lại như thế
khác. Cứ thế "tưởng" được dùng theo nghĩa hiểu lầm, tưởng lầm. Như vậy
vô tình nó cho thấy sự nhận thức (tưởng) của ta thường là một sự nhận
thức sai lầm"[15].
Sự vật vô thường mà ta tưởng là thường, sự vật vô ngã mà ta cho là có
ngã.
Trong giới thiền môn, mỗi khi đang
ngồi thiền ý nghĩ khởi lên loạn xạ kéo ta đi thì đa số gọi đó là vọng
tưởng, nhưng đối với tôi cái đó không phải vọng tưởng mà là tạp niệm tức
sự nhớ nghĩ lung tung bất định.
Trong tiếng Pháp chữ tưởng được
dịch là "croire", tiếng Anh là "believe", vọng tưởng được dịch là
"fausse croyance" hoặc "wrong belief". Danh từ vọng tưởng
mà tôi đề cập ở đây và trong suốt tập sách này có nghĩa là sự tin
tưởng sai lầm chứ không phải ý nghĩa vọng tưởng
của Thiền Tông. Vọng tưởng ở đây bao gồm cả thành kiến (préjugé), quan
niệm (concept), tập quán (coutume), phóng chiếu (projection)[16],
v.v...
Nếu để ý quan sát dòng tư tưởng hay
suy nghĩ của mình ta sẽ thấy nó khởi lên và trôi chảy theo một chiều
hướng khá nhất định. Nói cách khác, cái thói quen suy nghĩ và nhận thức
của ta bị ảnh hưởng bởi những cái tưởng của ta. Sống ở đời
ai nấy đều có tưởng, không tin tưởng cái này thì tin tưởng cái kia.
Người tin Phật, người tin Chúa, người tin Allah, ngay đến những người vô
thần không theo đạo tưởng mình không có lòng tin nhưng thật ra họ đã tin
vào cái tưởng vô thần của họ, tin vào mãnh lực đồng tiền, hoặc tin vào
chủ nghĩa này chế độ nọ, v.v...
Trên chân lý tuyệt đối, tất cả
những cái tưởng của chúng ta phần nhiều sai lầm vì chúng ta chưa giác
ngộ, chưa thấy được bản tánh và pháp tánh, nhưng trên phương diện tương
đối những cái tưởng của ta đôi khi có cái đem lại hạnh phúc và cũng có
cái đem lại khổ đau. Cái tưởng đem lại khổ đau tôi gọi là vọng tưởng
(fausse croyance, wrong belief).
Thời xa xưa tất cả mọi người đều
tin tưởng mặt đất bằng phẳng và mặt trời mọc lên lặn xuống từ lòng đất.
Sau đó người ta nhận ra mặt đất không phải thẳng mà là tròn và mặt trời
bay vòng quanh trái đất. Mãi đến thế kỷ thứ 15, Copernic chứng minh là
trái đất quay xung quanh mặt trời nhưng lúc đó trái với sự tin (tưởng)
của quần chúng nên ông bắt buộc phải từ bỏ sự khám phá của mình nếu
không sẽ bị đưa lên dàn hỏa thiêu.
Bà con của vọng tưởng gồm có: tưởng
tượng, mơ tưởng, mộng tưởng và ảo tưởng. Tưởng tượng (imagination) là
nghĩ tưởng và hình dung ra những chuyện chưa có hoặc không có. Thông
thường những ý tưởng tượng này không kéo dài nên chỉ thoáng chốc là ta
sực tỉnh, biết mình tưởng tượng. Mơ tưởng và mộng tưởng có vẻ giống
nhau, nhưng mơ nhẹ hơn mộng, tiếng Anh mơ tưởng là daydream tức
là giấc mơ ban ngày. Thí dụ tôi thèm chức tước quyền hành nên tôi mơ
tưởng ngày nào đó tôi sẽ làm tổng thống, sẽ có người hầu kẻ hạ và tôi sẽ
ra lệnh này nọ, v.v... Nếu ý tưởng này chỉ thoáng khởi lên rồi biến mất
thì đó là tưởng tượng, nhưng nếu nó trở đi trở lại hoài thì gọi là mơ
tưởng. Nếu mơ như vậy hoài đến nỗi tôi bắt đầu tưởng mình là tổng thống
thật, đi đâu cũng ra oai, hách xì xằng, sai khiến kẻ khác, bắt họ phải
hầu mình. Đây là tôi đã đi vào mộng tưởng, sống trong mộng mà không hay,
cứ tưởng là thật. Bát Nhã Tâm Kinh có nói Bồ Tát khi dùng trí huệ Bát
Nhã quán chiếu thâm sâu thì sẽ xa lìa điên đảo mộng tưởng, đạt đến Niết
Bàn. Như thế thì biết mộng tưởng rất quan trọng và là một vấn đề lớn cần
giải quyết. Ảo tưởng (illusion) là những ý tưởng sai lầm không đúng với
sự thật, nó giống như trò ảo thuật khởi lên trong tâm mà ta không biết
cứ tưởng là thật.
Quan niệm
Quan niệm (hay khái niệm) là những
ý nghĩ, suy tư, cảm giác, nhận xét mà ta đóng lại thành khung cứng ngắc.
Ở Việt Nam người ta quan niệm lúc
con còn nhỏ thì cha mẹ nuôi, đến khi cha mẹ già yếu thì con phải nuôi
lại (Trẻ cậy cha, già cậy con). Nhưng ở Pháp người ta lại nghĩ khác, cha
mẹ nuôi con đến 18 tuổi hoặc đến khi con học ra trường là hết bổn phận.
Khi cha mẹ già yếu, con cái không bắt buộc phải nuôi lại. Hơn thế nữa,
cha mẹ nên đi vào nhà dưỡng lão để khỏi làm phiền con cái.
Ở Phi châu, có một bộ lạc nọ, khi
cha mẹ già yếu, họ bắt hai ông bà phải leo lên một cái cây cao, con cháu
ở dưới đua nhau rung cây thật mạnh cho hai ông bà té xuống chết. Nếu
rung xong mà ông bà không té thì con cháu đem về nuôi tiếp. Họ quan niệm
(nghĩ) rằng xứ nghèo không đủ ăn, người nào già quá không đủ sức ôm cây
thì nên chết cho rồi, khỏi sống làm khổ con cháu.
Ở Tây phương ngày nay, vợ chồng mới
cưới nhau vài tháng mà không ưng ý thì ra toà ly dị, đó là việc bình
thường, tự nhiên, không có gì trái luân thường đạo lý.
Theo truyền thống phong tục Á Đông,
người đàn bà phải trung thành với chồng, ngay cả sau khi chồng đã chết.
Một phụ nữ tiết hạnh là người ở giá thờ chồng nuôi con. Vì quan
niệm như vậy nên cô không bao giờ dám nghĩ đến việc tái giá hay
yêu đương một người đàn ông khác.
Thành kiến
Là người Việt Nam nên tôi có một
lối suy tư riêng của người Việt Nam. Tôi suy tư như vậy vì tôi quan niệm
như vậy. Vì quan niệm như vậy nên tôi mới có một cái nhìn (thành kiến)
như vậy. Chữ thành kiến rất hay và có ý nghĩa. Thành kiến theo
nghĩa đen là cái thấy đã thành hình trước khi nhìn thấy sự việc.
Thí dụ: Tôi quan niệm rằng tất cả
những người đi buôn đều là gian lận. Vì quan niệm như thế nên trong một
bữa tiệc, bạn bè tôi giới thiệu ông A và cho biết ông là một nhà thương
gia nổi tiếng. Vừa mới nghe như thế là tôi có thành kiến ngay với ông A,
mặc dù ông chưa làm gì hại tôi nhưng trong đầu tôi đã thấy ông A là
người gian lận, lưu manh, xảo quyệt và tôi cảm thấy ghét ông ta ngay lập
tức.
Ở Việt Nam trước kia, khi đất nước
mới bị chia đôi, dân chúng ở ngoài Bắc có thành kiến là những người giàu
có, điền chủ đều là người ác, bóc lột dân nghèo, nên họ có phong trào
kết tội và đấu tố người giàu.
Một khi đã có thành kiến rồi thì ta
không tiếp xúc được với thực tại nữa. Ta đã đeo vào một cặp mắt kính màu
để nhìn sự vật nên cái thấy của ta bị méo mó. Thành kiến là một loại
vọng tưởng rất nguy hiểm, thường gây nghi ngờ và chia rẽ.
Tập quán
Tập quán là những thói quen đúc kết
từ truyền thống văn hóa, giáo dục, xã hội.
Ở Á Đông, chịu ảnh hưởng Nho Giáo,
người ta quan niệm là "nam nữ thọ thọ bất thân". Nam nữ chưa quen nhau
thì không được có những cử chỉ thân mật như nắm tay, sờ vai, ôm ấp, mỉm
cười, v.v... Khi gặp nhau chào hỏi chỉ đứng xa vẫy tay hoặc cúi đầu là
đủ. Sau khi tị nạn qua Pháp, vào trường Trung Học, mỗi ngày gặp bạn bè
chào hỏi, có vài cô bạn đầm ôm hôn lên má làm tôi sững sờ, vừa mắc cở
vừa hồi hộp, tim đập liên hồi. Về nhà, tôi cứ tưởng là chắc mấy cô ấy để
ý thích mình nên mới ôm hôn như vậy. Cái tập quán Á Đông của tôi đã
khiến cho tôi tưởng bở, tưởng mấy cô đầm kia thích mình, nhưng thật ra
họ chả thích gì tôi tí nào, tập quán của họ là như thế! Gặp bạn trai thì
bắt tay, gặp bạn gái thì hôn trên má (faire la bise). Bắt tay hay hôn má
chỉ là xã giao, không có một chút tình ý gì bên trong hết! Vì không hiểu
phong tục tập quán của mình và của người nên tôi đã ngộ nhận. Do đó tập
quán cũng thường đưa đến ngộ nhận, và ngộ nhận tức là vọng tưởng.
Phóng chiếu
"Trong đời sống hàng ngày, có những
ý nghĩ, tình cảm mà ta không nhận ra chúng là của riêng ta, phát xuất từ
ta và ta phóng chiếu chúng vào sự vật và người khác, rồi tưởng
hay đinh ninh sự vật và người khác là như thế. Danh từ bình dân là "suy
bụng ta ra bụng người"."Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", cảnh vật tự
nó đâu có vui buồn, vì trong tâm ta buồn rồi ta phóng chiếu cái buồn của
mình lên cảnh vật nên thấy (tưởng) cảnh vật buồn. Nhiều lúc còn đổ tại
cảnh buồn nên làm ta buồn[17]."
Trong sự liên hệ tình cảm, chúng ta thường xuyên phóng chiếu mà không
biết.
Thực tại không phải như ta tưởng
Có một ông vua nọ muốn biết người
mù nhìn sự vật ra làm sao. Vua bèn cho gọi năm anh mù đến, cho mấy anh
sờ vào một con voi rồi tả cho vua nghe.
Anh sờ trúng cái vòi thì nói con
voi giống như vòi nước.
Anh sờ trúng tai voi thì nói con
voi giống như cái quạt.
Anh sờ trúng bụng voi thì nói con
voi giống như cái trống.
Anh sờ trúng chân voi thì nói con
voi giống như cột nhà.
Anh sờ trúng đuôi voi thì nói con
voi giống như cái chổi.
Năm anh mù tả con voi theo kiểu của
mình, không ai giống ai, người nào cũng cho mình đúng rồi cãi nhau um
xùm làm vua vừa buồn cười vừa thương hại. Buồn cười vì anh nào cũng cho
mình biết được con voi, thương hại vì các anh mù mà không biết mình mù,
chỉ sờ thấy một phần nhỏ mà tưởng là mình đã thấy toàn thân con voi.
Đức Phật thuyết pháp trong suốt 45
năm, để lại biết bao nhiêu kinh điển. Chúng ta mỗi người chỉ học và
nghiên cứu vài bộ hoặc vài chục bộ kinh rồi tưởng mình biết hết đạo
Phật. Khi nghe quý thầy giảng đạo, tôi thấy đạo Phật của thầy A không
giống đạo Phật của thầy B, đạo Phật của thầy B không giống đạo Phật của
thầy C, và v.v...
Chẳng cần nói đến đạo Phật của quý
thầy khác nhau, hãy chỉ nói về đạo Phật của thầy A. Hai vợ chồng tôi
cùng đi nghe thầy giảng 2 tiếng đồng hồ. Về nhà hỏi lại thì mỗi người đã
nghe và hiểu khác nhau rồi. Tôi thích Thiền nên trong suốt buổi giảng,
tôi chỉ nghe thấy những gì có liên quan đến Thiền thôi. Vợ tôi thích
Tịnh Độ, những gì thầy nói có liên quan đến Tịnh Độ thì nàng thâu nhận
ngay, còn những chi tiết khác thì không nhớ gì hết!
Thầy nói pháp suốt 2 tiếng đồng hồ,
nhưng những gì tôi nghe được gom lại không quá 15 phút. Những gì thầy
nói trong 1 giờ 45 phút kia đã rơi đi đâu mất hết. Nhưng về nói chuyện
với vợ thì tôi cứ đinh ninh rằng mình đã nghe hết những gì thầy nói
trong 2 tiếng đồng hồ. Trớ trêu thay, vợ tôi cũng tưởng y như tôi nên
không biết ai đã nghe đúng. Thật ra mỗi người chỉ nghe và thâu nhận
những gì mình thích nghe mà thôi.
Trong một khu rừng nọ, các loài thú
đang chung sống bình yên. Một hôm bỗng nhiên có tiếng sấm nổ vang rền
trên bầu trời báo hiệu giông bão sắp đến. Có một chú thỏ đang say sưa
giấc ngủ bị giật mình tỉnh dậy. Nửa tỉnh, nửa
mê, thỏ hoảng hồn co chân bỏ chạy. Trên đường chú gặp hai anh nai vàng
đang đứng ngơ ngác, thấy thỏ hoảng hốt, hai anh nai hỏi duyên cớ. Thỏ
vừa chạy vừa la: "Trời sụp! Trời sụp! Chạy mau". Hai anh nai vốn nhẹ dạ,
nghe nói vậy liền cắm đầu chạy theo. Ba con chạy một quãng gặp ba con
ngựa vằn đang gặm cỏ. Thấy thỏ và nai phóng chạy hoảng hốt, ngựa hỏi tại
sao thì cả ba con cùng đáp: "Trời sụp! Trời sụp! Chạy mau". Thế là ba
con ngựa vằn hoảng sợ chạy theo thỏ và nai. Dần dần các con thú khác
cũng hùa vào chạy theo. Nhóm thú chạy như thế càng ngày càng đông khiến
các con thú khác dù không biết ất giáp gì cũng vội vàng tin là trời sụp
rồi kéo nhau chạy trối chết.
Tương tựa như vậy, khi nghe ai
nói một tin gì đó, chúng ta liền tin rồi đem rao truyền tiếp, nhiều khi
còn thêm mắm thêm muối cho câu chuyện thêm lâm ly rùng rợn và nhất là
thích nghe những tin đồn xấu về người khác.
Vì thế đức Phật đã nói: Chớ có
tin bất cứ điều gì vì nghe đồn hay nói lại. (Xem phần trước, Kinh
Kalama).
Câu chuyện sau đây về "Ba cái
lọc" của nhà hiền triết Hy Lạp Socrate cũng tương tựa như vậy.
Một hôm có một người đến gặp
Socrate và nói:
- Này Socrate, tôi phải kể cho anh
nghe bạn của anh đã có những hành vi gì!
- Khoan đã! Nhà hiền triết cản lại.
Điều mà anh muốn nói với tôi đã được sàng qua ba cái lọc chưa?
- Ba cái lọc là cái gì? Người kia
ngạc nhiên hỏi.
- Đúng! Ba cái lọc. Chúng ta hãy
kiểm lại xem điều anh muốn kể cho tôi có lọt qua ba cái lọc này không.
- Cái lọc thứ nhất là sự thật.
Anh đã kiểm lại điều anh muốn kể có đúng là sự thật không?
- Ơ! Cái này tôi không chắc, vì tôi
chỉ nghe kể lại thôi.
- Như vậy thì không lọt qua được
cái lọc thứ nhất rồi! Nhưng thôi, anh nghe đây, cái lọc thứ hai là
tốt lành. Anh đã kiểm lại điều anh muốn kể, mặc dù không hoàn
toàn đúng sự thật nhưng ít nhất nó có tốt lành không?
- Ơ! Ơ! Điều này không có gì hay ho
tốt lành cả mà ngược lại ...
- Hừ! Vậy coi thử nó có lọt qua
được cái lọc cuối này hay không? Điều anh muốn kể cho tôi có đem lại
lợi ích gì không?
- Lợi ích hả? Chắc không quá
....!!!!
- Thôi đủ rồi! Socrate mỉm cười.
Điều mà anh muốn kể cho tôi nghe vừa không đúng sự thật, vừa không tốt
lành và không đem lại lợi ích gì. Vậy thì tôi không muốn nghe và khuyên
anh hãy nên quên nó đi là tốt nhất!
Đi dạo vườn hoa, tôi thấy một bông
hồng to, đỏ thắm tuyệt đẹp. Về nhà gặp bạn, tôi muốn chia xẻ cho bạn
niềm vui của tôi và tả lại cái bông hồng để bạn cùng thưởng thức vẻ đẹp
của nó. Làm như thế tôi nghĩ rằng bạn sẽ biết và cảm nhận được bông
hồng. Nhưng cái bông hồng mà tôi đang kể cho bạn không phải là bông hồng
mà tôi đã thấy lúc nãy nữa. Nói cách khác là tôi đang trao cho bạn một
mớ danh từ về bông hồng chứ không phải là bông hồng (tự thân).
Chúng ta thường lầm lẫn giữa
ý tưởng và thực tại, cũng như lẫn lộn danh
từ và sự vật.
Có một lần đi xem triển lãm tranh
hình, tôi thấy có một tấm hình lớn, trên đó chụp một trái táo và ở dưới
đề một câu như sau: "Đây không phải là một trái táo[18]".
Tôi rất ngạc nhiên, không hiểu tác giả bức tranh muốn nói gì. Túng thế
tôi quay lại hỏi vài người quan khách xung quanh, may thay có người hiểu
ý nghĩa nói cho tôi biết đây không phải một trái táo mà chỉ là
hình của một trái táo. Nghe xong vỡ lẽ, tôi chắp tay thầm phục
tác giả bức tranh đã vô tình dạy cho tôi một bài học, bài học ghi nhận
sự vật đúng như thật. Hình ảnh trái táo không phải là trái táo. Nhờ đó
tôi ngộ ra:
Danh từ trái táo không phải là trái
táo.
Ý tưởng về trái táo cũng không phải
là trái táo.
Cũng thế, bản đồ Paris không phải
là thành phố Paris. Những danh từ, ý tưởng và bản đồ giúp cho ta có một
khái niệm về thực tại và sự vật, nhưng khi có trong tay thì ta lại xoay
ra xem chúng là thực tại rồi quên đi thực tại. Thực tại luôn luôn biến
đổi từng sát na, trong khi đó danh từ, ý tưởng và bản đồ thì cứng ngắc
không thay đổi. Cho dù ngày nay với máy chụp hình tối tân, bạn đem ra
chụp cảnh Paris thì cái hình kia cũng chỉ là một hình ảnh của thành phố
Paris được chụp vào ngày 18 tháng 5 năm 1999. Và nếu bạn trở lại Paris
một tháng sau hay một năm sau để chụp lại thì cảnh Paris đã thay đổi
rồi.
Thực tại rơi rớt
Bình thường đa số chúng ta đều cho
mình biết được thực tại (réalité), cái gì tôi thấy, biết, nghe, hiểu đều
là sự thật (vérité). Vì thế nên mới có ngã kiến (tức là cái thấy của
tôi) và kiến thủ (khư khư cho cái thấy của tôi là đúng). Nhưng thực ra
chúng ta chỉ nắm bắt được những mảnh vụn của thực tại xuyên qua nhiều
cái lọc (filtre) hay lăng kính.
Thực tại (trần cảnh)
|
|
↓
|
|
Tri giác (lục căn)
|
Lọc thứ 1
|
↓
|
|
Văn hóa, xã hội
|
Lọc thứ 2
|
↓
|
|
Kinh nghiệm bản thân
|
Lọc thứ 3
|
↓
|
|
Nhận thức (thức)
|
Lọc thứ 4
|
↓
|
|
Bóng dáng thực tại
|
Thực tại là sự việc hay cảnh vật
bên ngoài (trần cảnh). Nó không đúng sai, phải trái, thiện ác, đẹp xấu,
to nhỏ v.v... Nó là nó, danh từ đạo Phật gọi là như thị. Trong Bát Nhã
Tâm Kinh nói là bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm ...
Đứng trước thực tại (trần cảnh),
ta thâu nhận nó qua những giác quan của mình là lục căn: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý. Nếu các giác quan của ta không được chính xác như mắt lé
cận thị, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi khô, thân bệnh, ý đang tán loạn, vui
buồn v.v... thì thực tại bị méo mó đi một phần. Do đây tri giác trở
thành một cái lọc (filtre) hay lăng kính
(miroir) thứ nhất. Và thực tại ban đầu trở thành thực tại số 1.
Kế tiếp thực tại số 1 lại được
nhìn ngắm qua cái lọc thứ 2 là gia tài văn hóa, xã hội mà ta đã sinh ra
và lớn lên. Nếu là người Việt Nam thì ta sẽ thấy sự việc đó như thế này,
và nếu là người Mỹ hay Pháp thì ta sẽ thấy sự việc như thế khác, nói
theo Duy Thức Học là ta chịu ảnh hưởng của cộng nghiệp. Từ đó thực tại
số 1 lại bị biến thái và trở thành thực tại số 2.
Kế tiếp, cũng cùng là người Việt
Nam nhưng tôi có những kinh nghiệm riêng tư, không giống như những người
Việt Nam khác. Tôi có một đời sống khác, tình cảm khác, người yêu khác,
công việc khác, v.v... tóm lại là một biệt nghiệp khác. Do đó cái thực
tại số 2 kia sẽ được nhìn qua cái lọc thứ 3 là kinh nghiệm bản thân và
trở thành một thực tại số 3.
Cuối cùng khi Ý của tôi muốn
nhận thức thực tại thì nó chỉ thấy được cái thực tại số 3 chứ không còn
thấy được cái thực tại ban đầu nữa. Sau khi nhận thức được cái thực tại
số 3 này, Ý thức của tôi mới đóng khung (lọc thứ 4) nó qua hình ảnh,
ngôn ngữ, khái niệm và cho đó là thực tại thứ thiệt. Cái thực tại sau
cùng mà Ý nhận thức được chỉ còn là một bóng dáng, một mảnh vụn của thực
tại, hay là một thực tại rơi rớt, méo mó vì đã trải qua nhiều cái lọc.
Tuy vậy đa số chúng ta cứ
tưởng là mình nắm bắt được thực tại, cho là mình biết đúng, thấy
đúng sự thật và từ đó muốn bao nhiêu người khác phải tin và nghe theo ý
kiến của ta.
Jean Rostand, trong quyển "Ce que
je crois", có nói: "Kẻ ngu thì tưởng là mình biết, người trí thì biết
là mình tưởng" (les téméraires croient qu'ils savent, les sages
savent qu'ils croient).
Làm sao biết vọng tưởng, vọng
tình?
Tiến trình phiền não phát xuất từ
ba anh Ý, Tình, Thân (Ba Mình) hoặc nói cách khác là do vọng tưởng, vọng
tình và vọng nghiệp sinh ra. Hai cặp ba này liên quan rất mật thiết. Vì
Ý vô minh nên khởi vọng tưởng, vọng tưởng nếu không được hóa giải thì
sinh ra vọng tình, vọng tình nếu không được hóa giải thì đưa đến tạo
nghiệp khổ đau.
Nhưng làm sao biết mình có vọng
tưởng? Làm sao ngưng được vọng tưởng? Phải chăng mỗi khi có ý nghĩ khởi
lên đều là vọng tưởng? Theo Thiền tông, hễ khởi ý niệm là vọng, dù đó là
niệm xấu hay tốt. Nhưng ở đây chúng ta không nói chuyện Thiền mà nói
chuyện đời sống hàng ngày, vì chúng ta không thể ngồi thiền nhập định
suốt ngày, không nói năng hay tiếp xúc với trần cảnh. Ngày nào còn sống
ngày đó chúng ta còn phải suy tư, nghĩ tưởng vì phải đi làm kiếm ăn nuôi
gia đình. Chỉ khi nào đắc quả A La Hán nhập Diệt-thọ-tưởng-định thì lúc
đó mới không còn một chút ý tưởng. Hơn nữa chúng ta được cấu tạo bởi năm
uẩn, trong đó có thọ, tưởng, hành, và thức nên suốt ngày chúng ta cảm
thọ, tư duy, suy nghĩ, nhớ tưởng lung tung, đó là chuyện đương nhiên.
Trên phương diện tương đối hàng
ngày, chúng ta không thể không có Tưởng, không tưởng cái này thì tưởng
cái kia. Tưởng rồi tin vào cái tưởng của mình gọi là tin tưởng
(croyance, belief). Những cái tưởng đúng hoặc gần với thực tại, với chân
lý thì được gọi là chánh kiến, đạo đức hay minh triết vì nó đem lại an
vui hạnh phúc, còn những cái tưởng méo mó sai lầm không đúng thực tại,
tin vào đó sẽ đưa đến buồn phiền khổ đau thì gọi là vọng tưởng (fausse
croyance). Ngay cả những cái ta cho là sự thật hay chân lý rồi khư khư
bám chặt vào đó thì nó cũng trở thành một loại vọng tưởng.
Mỗi khi khởi tâm so sánh một chiều,
phê bình cái này đúng, cái kia sai, hoặc lên án người này tốt, người kia
xấu, đó là đang rơi vào vọng tưởng (xem lại phần vọng tưởng).
Vọng tưởng «
phân biệt, so sánh, phê phán, lên án, chỉ trích phải trái, tốt xấu.
Làm sao biết mình có vọng tình? Đó
là khi trong lòng có sự ưa ghét đối với cảnh vật, hoặc yêu người này
ghét người kia.
Vọng tình «
trong lòng ưa ghét, thương giận, lo buồn...
Khi tâm thấy người này đúng, người
kia sai thì ta sẽ ưa người (đúng) này và ghét người (sai) kia. Tiếp theo
ta muốn gần gũi thân cận (thủ) người đúng và xa lánh ghét bỏ (xả) người
sai.
Vọng nghiệp «
thủ xả, bám víu, xua đuổi.
Tóm lại mỗi khi trong lòng có sự ưa
ghét đối với người hay vật là biết mình đã có vọng tưởng rồi. Vì có vọng
tưởng nên mới sinh ra vọng tình (ưa ghét).
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Đăng nhận xét