Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi bà nội
sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới
vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn bận
tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một
bên, ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai
sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể
nào không lo cho nó được!”
Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền sư Chí Công là
một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song thân của Thiền
sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ
nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy
một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể
hài nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân
giống như móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được
ngũ nhãn lục thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh
trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.
Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất kính trọng và tin
phục các Thiền sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên gì trong đời sống,
như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền sư
đến để tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư đến tụng kinh chú
nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư
ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn nhân
đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô
dâu chú rể, Ngài liền nói:
“Thật cổ quái, thật cổ quái! Cháu cưới bà nội.”
“Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc như vậy. Đây
không phải là chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa
cháu cưới bà nội mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt
những nhân duyên trong thời quá khứ thì không thể nào lý giải được những
mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn… của nhau. Vì
sao? Vì mọi người đều có thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời trước.
Một người có thể là cha hoặc là con của nhau trong nhiều đời trước. Hoặc
một người đều là mẹ và con gái của nhau trong đời trước. Ông nội của
quí vị trong đời trước lại kết hôn với cháu gái của quí vị trong đời
này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm con gái của quí vị. Tất
cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa khôn lường.
Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi bà nội
sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới
vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn bận
tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một
bên, ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai
sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể
nào không lo cho nó được!”
Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng nếu mọi việc
đều toại nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới thì người chết
sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà lão
nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong,
bà ra đi mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm
vương, bà ta than khóc, thưa rằng:
- Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
- Được rồi, bà hãy trở lại dương gian chăm sóc cho nó.
Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cõi trần. Khi đến tuổi
thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước đây của bà ta. Vì vậy nên nói
“cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có phải là cổ quái thật không?
Chỉ vì một niệm ái luyến không buông xả được mà tạo nên biết bao
duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận tâm vì đứa cháu, mà về
sau phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là
chuyện cổ quái hay sao?
Quí vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết được điều ấy?”
Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ
cần nhìn qua, là Ngài liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là
bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi một niệm ái luyến sai lầm nên
nay phải đầu thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa cháu nội mình.
Một niệm lành còn như thế huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng
niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết bao giờ
mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.
Vì miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê này vốn là mẹ của
em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã
phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi
dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát
thương xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này.
Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói: “Con trai đang đánh bố”.
Vì cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là cha của anh
nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt trống.
Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp: “Heo dê ngồi ở trên”.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp: “Heo dê ngồi ở trên”.
Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai trở lại làm
người, nay họ đều là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới
này.
Nhìn trong bếp, Ngài nói: “Lục thân bị nấu trong nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp trước đã sát sinh
heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị
giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.
Ngài nói tiếp: “Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”.
Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với mình rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn vào gia đình này. Làm sao
chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia đình với
trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất
cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả
tương ứng với nhân đã gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để
trả nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí vị không tìm cách
trả món nợ này thì nợ nần vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của ngân hàng
vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đình nuôi một con lừa,
dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp
nên thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài
trong cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người
chủ hay đánh đập lừa chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai
người này đến tuổi thành hôn thì họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như thế nào không? Suốt
ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất
luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa.
Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng làm điều gì sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:
- Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con không
biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo cho
con biết mối tương quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời
này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
- Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai người cho mà nghe. Trong
đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng
con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay bột.
Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ được
đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con lừa thì được đầu
thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng
như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đã
hiểu rõ nhân quả tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để
chấm dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất giấu tất cả mọi dụng cụ trong
nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng
còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để
cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà mới được trả. Lúc đó, bà
mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau
rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không còn đánh bà
nữa.
Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí Công chỉ dạy. Khi người
chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn thấy
chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi,
cô ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn
cho đến khi ông chồng ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại việc được
Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai người.
Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh
chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi
tìm ta để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có sự quan hệ với nhau tương
ứng với nhân đã tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong đời trước, ai
đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo ở
đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có liên quan đến bà con
quyến thuộc của mình. Nếu quí vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì quí vị
có thể chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những việc ác.
Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai con
chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt
bồ câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta
làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay
mình làm có ngon hay không? một mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công
ngày nào cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món ăn rất ngon, nên
muốn thưởng thức một chút rồi mới đem đến cho Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi:
- Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
- Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há miệng
rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn con kia thì bị
mất một cánh, không thể bay lên được.
Thiền sư mới bảo:
- Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay được? Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền sư Chí Công không phải là
người thường. Ngài chính là hóa thân của Bồ tát. Thế nên Ngài có năng
lực biến những con bồ câu bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống.
Không phải là Bồ tát, không làm chuyện này được.
Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem
cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há
miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những việc này là rất thường đối với
cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí Công là một vị Bồ – tát, nhưng
không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ – tát,
ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các
vị không bao giờ mong khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm
phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ – tát cũng không thể nào nhận biết được.
Việc làm của Bồ – tát cũng gần như hành xử của người thường, nhưng thực
chất lại không giống nhau. Là vì phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến
lợi ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho người khác. Còn Bồ
– tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không nghĩ đến mình.
Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát thì tự làm lợi ích cho mình còn lo làm
lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi giúp cho người khác
giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn.
Trích từ bài pháp Giảng Giải Chú Đại Bi
Cố hòa thượng Tuyên Hóa
Cố hòa thượng Tuyên Hóa
0 Kommentare:
Đăng nhận xét