"Người tu hành cầu giải thoát cần phải xa lìa sắc
đẹp và tình dục nhưng đó chỉ là một loại cám dỗ thô kệch không nguy hiểm
bằng tình cảm. Tình cảm vi tế không hình tướng nhưng nó trói buộc và sai
sử con người gấp trăm ngàn lần..."
(Tiếp theo)
Thích Trí Siêu
Tóm lại mỗi khi trong lòng có sự ưa
ghét đối với người hay vật là biết mình đã có vọng tưởng rồi. Vì có vọng
tưởng nên mới sinh ra vọng tình (ưa ghét).
Cảnh giới Ý Đồ
Trong Duy Thức Học có danh từ chánh
báo và y báo, cả hai đều là nghiệp quả hay quả báo. Chánh báo là thân
mạng con người, còn y báo là môi trường ta sống trong đó. Tùy nghiệp
nhân đã tạo mà ta có thể được chánh báo và y báo tốt như sinh ra thân
thể khỏe mạnh, đẹp đẽ và sống trong một quốc gia giàu sang. Hoặc chánh
báo tốt mà y báo xấu như thân thể khỏe mạnh, đẹp đẽ nhưng sống ở một nơi
nghèo hèn khốn khổ. Hoặc chánh báo xấu mà y báo tốt như thân thể xấu xí,
bệnh hoạn nhưng lại được sống trong một gia đình giàu sang. Hoặc cả
chánh báo và y báo đều xấu như sinh ra thân thể xấu xí, bệnh hoạn và
phải sống trong một xứ nghèo khổ.
Chúng ta có thể sống trong cùng một
y báo, cùng một môi trường, gia đình, xã hội, quốc gia nhưng trong thâm
tâm mỗi người lại có riêng một cảnh giới khác. Vì mỗi chúng ta đều có
những vọng tưởng, quan niệm, thành kiến, tập quán, và kinh nghiệm tình
cảm cá nhân, tất cả những cái đó cộng lại tạo ra một thế giới riêng biệt
trong tâm ý mà tôi gọi là "cảnh giới Ý Đồ". Ý đồ là bản đồ của tâm Ý.
Thế giới tâm ý được đóng khung thành một bản đồ gồm có những con đường
quen thuộc mà Ý của ta hay đi trong đó, với những quy tắc mà tình cảm và
hành động của ta thường tuân theo.
Tâm của ta là một họa sĩ khéo, luôn
vẽ vời ra đủ loại tranh ảnh, có cái đúng với thực tại, có cái méo mó và
có cái hoàn toàn tưởng tượng không thực. Cái đúng với thực tại, Duy Thức
Học gọi là tánh cảnh, cái hơi méo mó gọi là Đới chất cảnh, và cái hoàn
toàn tưởng tượng được gọi Độc ảnh cảnh. Đới chất cảnh và Độc ảnh cảnh
đều là thế giới tự biến của mỗi cá nhân.
Thí dụ: Hôm lễ Phật Đản tôi đi dự
lễ Khánh Thành chùa mới và cùng lúc được nghe thầy trụ trì giảng về ý
nghĩa công đức xây chùa cúng Phật. Cảnh chùa và buổi giảng có thực, đó
là Tánh cảnh. Nhưng về đến nhà tôi chỉ còn nhớ mái chùa cong cong, với
tượng Quan Thế Âm Bồ Tát lộ thiên đứng trên đầu con rồng đang phun nước,
đây là những mảnh vụn của thực tại mà tôi mang về được, gọi là Đới chất
cảnh. Sau đó tôi nghĩ thầm (tưởng tượng) mai mốt mỗi cuối tuần sẽ đến
chùa lễ Phật, làm công quả và học đạo với thầy, cái này gọi là Độc ảnh
cảnh, tức cảnh hiện ra một mình trong tâm ý tôi, vì việc này chưa xảy ra
và có thể sẽ không bao giờ xảy ra.
Nếu so sánh với Duy Thức thì cảnh
giới Ý Đồ có thể tương đương với Đới chất cảnh và Độc ảnh cảnh. Nhưng
cảnh giới Ý Đồ ở đây còn bao gồm nhiều thứ khác như đã nói ở trên. Phần
đông chúng ta tưởng mình cùng nói chung một thứ tiếng, cùng thấy một
cảnh, cùng chung một lý tưởng, cùng theo một đạo Phật, v.v... nhưng cảnh
giới Ý Đồ cho thấy thực tế không phải như vậy chút nào.
Một thí dụ khác: Tôi và bạn cùng
theo đạo Phật, nhưng khi nói đến chữ Phật tôi tưởng ngay đến Phật Thích
Ca trong khi đó bạn lại nghĩ đến Phật A Di Đà. Khi nói đến giải thoát
thì tôi nghĩ đến Niết Bàn, còn bạn lại nghĩ đến Cực Lạc. Khi nhắc đến
một ngôi chùa đẹp thì trong tâm tôi hiện ra chùa Một Cột ở Hà Nội, còn
trong đầu bạn hiện ra chùa Vĩnh Nghiêm ở Sài Gòn. Chúng ta cùng nói đến
Phật, giải thoát và chùa nhưng cả ba hoàn toàn khác nhau vì đức Phật
trong cảnh giới Ý Đồ của tôi không phải là đức Phật trong cảnh giới Ý Đồ
của bạn. Trong bản đồ (tâm ý) của bạn cũng có đầy đủ những thứ giống như
của tôi (Phật, chùa, giải thoát) nhưng khác một điều là nó do chính bạn
vẽ nên hai cái bản đồ không thể giống y như nhau được.
Biết được mỗi chúng ta đều có một
cảnh giới Ý Đồ riêng là điều quan trọng trong việc giao tiếp và truyền
thông. Nhờ hiểu được như thế ta sẽ không độc tài muốn mọi người phải
tuân theo ý của mình, không buồn bực khi thấy người khác không hiểu
mình, không vội nghe theo những tin đồn.
Chương trình tâm ý
Qua những phần trước: vọng tưởng,
quan niệm, thành kiến, tập quán, phóng chiếu, và cảnh giới Ý Đồ, chúng
ta có một chương trình tâm ý (programme mental). Trong xã
hội văn minh ngày nay, tất cả máy móc, cơ khí, điện tử đều được điều
khiển bởi chương trình tự động. Nhất là hệ thống vi tính (computer), nếu
bạn muốn máy vi tính của bạn chạy được thì phải gắn những chương trình
(programmes, logiciels, software) vào. Tâm ý của chúng ta cũng giống như
vậy, sau khi được bỏ vào hay gắn vào những vọng tưởng, quan niệm, thành
kiến, tập quán, v.v... nó cũng hoạt động theo chương trình mà ta đã
thiết lập (một cách vô ý thức). Tâm ý hoạt động theo chương trình là
sao? Đó là mỗi khi gặp một ngoại cảnh hay sự việc gì (input) nó liền cho
ra một phản ứng (output) tự động khiến ta không kịp suy nghĩ hoặc suy
nghĩ không ra.
Hồi nhỏ đi học ở Việt Nam tôi rất
sợ bị kêu lên trả bài, vì mỗi khi trả bài không thuộc tôi bị thầy giáo
tát hoặc cô giáo nhéo lỗ tai và chửi: "Sao ngu quá vậy"! Trong gia đình
thì tôi không bao giờ được quyền nói lên ý kiến của mình, vì ông bà, cha
mẹ, cô chú thường nói: "Con nít tụi bay im đi, biết cái gì mà nói". Qua
những dữ kiện trên, tâm trí tôi lặng lẽ thiết lập một chương trình: "Tôi
là người ngu, im đi, biết cái gì mà nói, nói bậy sẽ bị ăn đòn". Lớn lên
tuy đã tốt nghiệp kỹ sư và đi làm lâu năm nên tôi biết rõ công việc của
mình, nhưng mỗi khi phải đi họp (réunion, meeting) trong sở thì tôi rất
sợ, tim đập mạnh, đầu óc tê cứng, tay chân lạnh ngắt, lúc đó tôi giống
như một tù nhân sắp bị đưa ra pháp trường. Trong sở làm, từ chủ hãng cho
đến nhân viên, ai nấy đều quý mến tôi vì tôi làm việc tốt và chăm chỉ,
lúc nào cũng đối xử đàng hoàng lịch sự với mọi người, nhưng không hiểu
tại sao đến các buổi họp là tôi sợ hãi, mặc dù biết sợ như vậy là vô lý
làm tôi ăn nói vụng về. Nguyên nhân gây ra sợ hãi chính là cái chương
trình cũ (old program) mà tôi đã đưa vào tâm mình năm xưa ở tiểu học,
mỗi khi bị đứng ra trước một nhóm người để nói thì chương trình này nhảy
ra hoạt động, nó nói: "Tôi là người ngu, im đi, biết cái gì mà nói, nói
bậy sẽ bị người ta chửi".
Hồi cô Tám được ba tuổi, cha cô
phải đi quân dịch và tử trận bỏ lại hai mẹ con cô bơ vơ. Vài năm sau mẹ
cô mắc bệnh qua đời bỏ cô ở lại cho bà ngoại nuôi nấng. Lúc đó tuy hãy
còn nhỏ không biết suy nghĩ nhiều nhưng trong tiềm thức bé Tám đã âm
thầm đưa vào (set up) một chương trình: "Tôi là người bị bỏ rơi, những
người tôi thương trước sau gì cũng bỏ rơi tôi"! Lớn lên lập gia đình, cô
không dám lấy người cô thương mà lại lấy một người khác vì sợ nếu lấy
người đó thì họ sẽ bỏ cô. Vì lấy chồng mà không thương nên cô không có
hạnh phúc, thường buồn bực và bất mãn. Bởi gia đình không hạnh phúc nên
cô hay lo sợ là chồng sẽ bỏ cô. Đúng như cô dự đoán mong chờ, sau hai
chục năm chung sống chồng cô đã bỏ đi cưới người khác. Tuy không thương
yêu gì chồng nhưng cô cảm thấy rất đau khổ, cái chương trình "bị bỏ rơi"
lại hiện hành làm cô khóc suốt ngày, người ngoài tưởng cô nhớ chồng
nhưng thật ra cô khóc cho thân phận "bị bỏ rơi". Cô Tám có năm đứa con,
ba đứa đã lập gia đình, cứ mỗi lần làm đám cưới cho con, bên ngoài cô tỏ
vẻ vui mừng nhưng trong lòng đau như cắt vì cảm thấy lại "bị bỏ rơi
nữa". Hai đứa còn lại đang ở với cô vì còn đi học và sắp ra trường. Cô
rất mong con cái học thành tài nhưng trong thâm tâm cô nơm nớp lo sợ học
xong chúng nó sẽ ra ở riêng và cô sẽ sống cô đơn. Mấy đứa lớn tuy đã lập
gia đình nhưng ở gần và hàng tuần đều ghé thăm mẹ nhưng cô không thấy
được sự hiếu thảo đó mà tiếp tục sống trong hồi hộp lo âu sợ "bị bỏ
rơi".
Chúng ta thường sống với những
chương trình cũ rích không hợp thời hợp thế, chúng làm ta mắc kẹt không
sống an vui hạnh phúc được trong hiện tại. Công trình tu tập là làm sao
nhận diện được những chương trình lỗi thời này để xóa bỏ và thay thế
bằng những chương trình mới hợp thời và hữu ích hơn.
Tất cả những mặc cảm như tự ti, tự
tôn, tội lỗi, v.v... đều là những chương trình nằm sâu trong tiềm thức.
Mặc có nghĩa là thầm lặng, cảm là cảm nhận, mặc cảm là sự cảm nhận âm
thầm lặng lẽ trong tâm thức. Mặc cảm tự ti (complexe d'infériorité) là
âm thầm cảm nhận, cho rằng mình là người ngu, dở, thua kém kẻ khác. Vì
bị chương trình tự ti điều khiển nên ta trở thành nhút nhát, sợ hãi, mắc
cở. Càng nhút nhát, sợ hãi, mắc cở thì ta lại càng tự ti, càng thấy mình
dở và thua kém. Mặc cảm tự tôn (complexe de supériorité) là âm thầm cho
mình là người tài giỏi hơn kẻ khác. Vì bị chương trình tự tôn điều khiển
nên ta dễ kiêu mạn, ăn nói phách lối, khinh người. Mặc cảm tội lỗi
(culpabilité) là âm thầm cho mình có tội, mỗi khi gặp chuyện không may,
dù lớn dù nhỏ xảy ra đều ăn năn hối hận tự trách lỗi tại mình nên mới ra
nông nỗi như vậy. Người này thường bị ăn năn hối hận dày vò, sống trong
hồi hộp, sợ hãi, sợ bị trừng phạt.
Những mặc cảm này, xem ra có vẻ
không nguy hiểm vì không làm hại người khác một cách trực tiếp, nhưng
chúng cũng là một loại phiền não vì làm ta khổ sở. Nếu khổ sở, không
hạnh phúc thì từ từ ta sẽ ảnh hưởng đến những người xung quanh như vợ
chồng, con cháu, cha mẹ, anh em và làm họ khổ lây.
7. Vấn đề tình
cảm
Trong các báo chí, tạp chí văn
nghệ, truyền tin, ngoài những tin tức chính trị, kinh tế, xã hội, người
ta rất thích những mục tình cảm của các minh tinh màn ảnh, như tài tử
này lấy tài tử kia, cô nọ ly dị chồng, anh kia lừa dối vợ, v.v... Đời
sống xã hội hôm nay có thể gom lại trong hai chữ Tình và Tiền, nghe qua
hơi cải lương nhưng sự thật là vậy.
Người tu thường được dạy là phải xa
lánh ngũ dục: tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ (tài, sắc,
danh, thực, thùy), vì năm thứ này thu hút và cám dỗ con người đi vào nẻo
khổ. Riêng đối với sắc dục (tức sự ham mê sắc đẹp và tình dục) thì kinh
sách thường ví nó như rắn độc và dạy ta phải xa lánh. Nhưng xét cho kỹ,
sắc đẹp không lợi hại bằng tình cảm, đâu phải ai cũng mê nữ tài tử xi-nê
hay người mẫu (top model), mà dù có mê đi nữa cũng đâu thể lân la thân
cận hay làm gì được. Người tu hành cầu giải thoát cần phải xa lìa sắc
đẹp và tình dục nhưng đó chỉ là một loại cám dỗ thô kệch không nguy hiểm
bằng tình cảm. Tình cảm vi tế không hình tướng nhưng nó trói buộc và sai
sử con người gấp trăm ngàn lần.
Đa số phiền não khổ đau đều nằm
trên phương diện của Tình. Tình ở đây bao gồm tất cả tình cảm
(sentiment), tình dục (sexualité), cảm thọ (sensation, feeling) và cảm
xúc (émotion)[19].
Thí dụ tôi có tánh hay giận (sân),
giận là một cảm xúc, khi giận thì tôi cảm thấy nóng mặt
khó thở, tức ngực, đó là một cảm thọ, và tôi đâm ra ghét
người kia, ghét là một tình cảm.
Con người có những tình cảm rất
phức tạp, ngoài thất tình (hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục) còn có những
tình cảm éo le uẩn ức như bất mãn, ganh tị, mặc cảm tội lỗi, kiêu mạn,
tự phụ, lo âu, sợ hãi, nhút nhát, khủng hoảng, v.v...
Tình cảm
Người Á đông ít khi nào biểu lộ
tình cảm cho nên trong ngôn ngữ hằng ngày chúng ta không thấy sự khác
biệt giữa tình cảm, cảm thọ và cảm xúc như người Tây phương. Và cả ba
danh từ này cũng ít khi được dùng vì đa số hay dùng chữ cảm thấy hoặc
nghe thấy mà thôi, nhất là người Nam hay dùng chữ nghe để chỉ sự cảm thọ
như: tôi nghe nóng/lạnh trong người, tôi nghe đau nhức/khó chịu trong
bụng, v.v...
Tình là khả năng nhận biết những
cảm giác[20]
đến từ bên ngoài qua sáu giác quan (lục căn). Con người hữu tình nên khi
tiếp xúc với sự vật bên ngoài thì phát sinh cảm (thọ). Cảm thọ được nhận
thức phát sinh ra tình cảm. Ta có thể vẽ ra như sau để dễ hiểu:
Lục
căn + lục trần →
cảm thọ (sensation)
Cảm
thọ + nhận thức →
tình cảm (sentiment)
Cảm thọ có ba loại: dễ chịu, khó
chịu và bình thường.
Tình cảm có nhiều loại, nhưng
đều bắt nguồn từ hai loại: ưa và ghét. Khi gặp cảm thọ dễ chịu thì ưa,
gặp cảm thọ khó chịu thì ghét. Từ ưa nên sinh ra nhiều loại khác như
thương, thích, yêu, lo, buồn, ghen, v.v... Từ ghét nên sinh ra giận hờn,
sợ hãi, khinh bỉ, kiêu mạn, v.v...
Khi ta đang khát gặp được một
người cho ta nước uống. Khát nước là một khổ thọ,
được uống nước là một lạc thọ. Khi được lạc thọ thì tâm sinh ra ưa mến
người cho nước, đây là tình cảm.
Giao thiệp với một người nào đó mà
ta thấy dễ chịu (cảm thọ) thì từ từ ta sẽ quý mến thương yêu người này,
ngoài đời gọi là có cảm tình.
Tình cảm luôn luôn có đối tuợng, ưa
là ưa ai, ưa cái gì, và ghét là ghét ai, ghét cái gì?
Tình cảm dù ưa hay ghét đều là sợi
dây trói buộc con người vào thế giới luân hồi. Đa tình thì đa sầu. Trong
Kinh Lăng Nghiêm chương IV, đoạn IV, Phân biệt tình tưởng nhẹ nặng, đức
Phật có nói tưởng nhiều thì bay lên, tình nhiều thì đi xuống, tình và
tưởng bằng nhau thì không bay lên, không đọa xuống, sinh nơi nhân gian,
tưởng sáng suốt nên thông minh, tình u ám nên ngu độn[21].
Tưởng chính là ý tưởng hay lý trí, tình là tình cảm. Là người ai cũng có
tình cảm nhưng phần đông là vọng tình, tức là tình cảm ái luyến ích kỷ,
dẫn đến ưa ghét, giận hờn. Tu hành là chuyển hóa tình cảm thành từ, bi,
hỷ, xả.
Chiếm hữu
Lúc nhỏ sống trong gia đình ta cần
tình thương của cha mẹ. Lớn lên ta đi tìm tình thương nơi một người khác
phái, nếu là trai thì ta đi tìm một người con gái nào "dễ thương" có thể
ban cho ta tình thương mà trước kia ta thèm khát mong chờ nơi mẹ hay
chị. Nếu là gái thì ta đi tìm một người con trai nào vui vẻ, săn đón,
bảo vệ, chiều chuộng ta như trước kia ta đã từng đòi hỏi mong chờ nơi
cha hoặc anh.
Đối với cha mẹ ta không thể độc
quyền đòi hỏi cha mẹ phải thương yêu một mình ta nếu có nhiều anh em.
Nhưng nay đối với người tình hay hôn phối thì ta có thể chính thức đòi
hỏi người đó phải thương yêu riêng một mình ta thôi. Nếu chẳng may người
đó cũng thương yêu luôn cha mẹ hay anh em thì ta sẽ cảm thấy khó chịu,
không vui vì nghĩ rằng ta không được thương yêu một cách trọn vẹn.
Muốn thương và được thương tự nó
không có gì xấu, nhưng vấn đề là khi thương chúng ta chỉ muốn chiếm hữu
và độc quyền. Ta chỉ muốn thương yêu một mình người đó và muốn người đó
cũng chỉ thương yêu một mình ta, không muốn một người nào khác xen vào.
Rồi từ từ ta muốn chiếm hữu luôn người đó từ thể xác lẫn tinh thần, có
nghĩa là ta muốn người đó phải đi đứng, nói năng, suy nghĩ giống như ta.
Khi đi đâu thì ta cũng muốn người đó đi theo. Khi ta thích cái gì thì
cũng muốn người yêu của ta phải thích luôn cái đó, muốn biến người yêu
của mình thành một hình nhân thứ hai, một thứ sở hữu. Ta không còn biết
đến quyền tự do, sở thích và nhân phẩm của người kia nữa mà chỉ biết
người kia là của ta, thuộc về ta mà thôi. Nếu được như thế thì đỡ quá
nhưng thực tế trái ngược vì người kia cũng muốn ta trở thành sở hữu của
họ, muốn ta biến thành như cái họ muốn và từ đó sinh ra giằng co tranh
chấp quyền lợi, ai là chủ ai là tớ?
Tự ái
Tự ái tương đương với ngã ái
(atmasneha) tức là thương yêu ái luyến cái Ta. Khi cái Ta được tâng bốc
khen tặng, đề cao thì ta vui sướng thích thú, khi cái Ta bị đụng chạm,
chỉ trích, xem thường thì ta buồn bực khó chịu. Trên phương diện tình
cảm chúng ta muốn cái Ta (ngã) được mọi người chú ý, khen ngợi và thương
yêu. Nhiều tự ái chừng nào thì dễ đau khổ chừng nấy. Những bậc ông bà,
cha mẹ, thường cho mình lớn tuổi trải đời, hiểu biết nên hay đòi hỏi
người nhỏ tuổi như con cháu phải kính nể và nghe lời mình. Nếu chẳng may
chúng không nghe lời thì buồn giận, tức tối, ăn ngủ không yên, nhiều lúc
phát sinh bệnh tật. Những người có học thức, chức tước, địa vị càng cao
thì cái ngã cũng lớn theo và tự ái càng nhiều. Bởi vậy người tu hành
phải biết xóa bỏ tự ái thì được an vui.
Tìm người lý tưởng
Sống ở đời chúng ta luôn luôn
cần một đối tượng để biểu lộ tình cảm của mình, do đó chúng ta thường mơ
màng đi tìm một người lý tưởng để thương yêu và phục vụ. Lấy chồng để
thương yêu, phục vụ chồng, có con thì thương yêu và chăm sóc cho con.
Đến khi nhận ra "Tu là cõi phúc, tình là giây oan" thì ta tìm đến đạo.
Nhưng khi vào đạo, ta lại tiếp tục mang theo tình cảm của mình dưới sự
trá hình, ta đi chùa này vì ưa mến thầy này, không đi chùa kia vì không
có tình cảm với ni sư kia, v.v... Đến chùa này thì ta được mọi người quý
mến để ý, còn đến chùa kia thì chả có ai chào hỏi săn đón. Ta theo thầy
này vì thầy tài giỏi từ bi, không theo thầy kia vì thầy có vẻ sân, si,
ái, ố, v.v...
Vị thầy nào từ bi, hiền lành, có
tài thuyết pháp, lại thông kinh điển thì dễ bị đóng khung "ông thầy lý
tưởng" và chắc chắn sẽ có nhiều Phật tử "thương thầy". Thương ở đây có
nhiều trình độ từ cạn đến sâu. Thương cạn thì đến chùa nấu nướng quét
dọn công quả cho thầy, điều này đa số Phật tử già trẻ đều làm và không
ai chỉ trích. Thương sâu đậm là tưởng nhớ đến thầy nhiều hơn, muốn đích
thân săn sóc, lo lắng cho thầy và gần gũi thân cận với thầy, nếu thầy
khó tính không để ý đến sự chăm lo của mình thì buồn tủi, giận hờn.
Trường hợp này tuy chưa có gì gọi là phạm giới nhưng thật ra đã bị dính
mắc trầm trọng rồi. Đến với đạo để cầu giải thoát mà vô tình lại trói
buộc mình vào tình cảm sai lầm.
Có nhiều người tu hay sợ và
tránh né đàn bà, còn các bà cụ thì hay làm cảnh sát canh chừng quý thầy,
không cho nữ Phật tử lại gần, sợ họ cám dỗ quý thầy, hoặc sợ quý thầy sa
ngã.
Tội nghiệp các cụ muốn giữ cho
quý thầy yên thân tu hành, nhưng điều quan trọng là các thầy lớn cần
phải giảng dạy cho đệ tử hiểu rõ về tâm lý nam nữ để họ trưởng thành và
tự bảo vệ lấy mình. Đương nhiên một người giữ giới đúng đắn là tự bảo vệ
lấy mình rồi, đâu cần phải học gì thêm. Nhưng giới luật chỉ là hàng rào
ngăn chặn bên ngoài, không ngăn cản được tâm ái luyến bên trong. Một
người có thể giữ giới rất kỹ bề ngoài nhưng trong tâm vẫn thầm yêu trộm
nhớ như thường. Tình yêu có thể xảy đến ngay lần đầu (coup de foudre)
khi mới gặp người kia qua ánh mắt, giọng nói, cử chỉ, dáng đi, không cần
phải gần gũi qua lại mới rơi vào tình yêu (fall in love).
Yêu thương là một bản năng tự
nhiên của con người, nhưng yêu thương làm sao cho đúng, đúng chỗ, đúng
cách, đúng thời, nếu không thì tình thương sẽ trở thành tình lụy, tình
sầu.
Yêu một thầy tu hoặc một người
đã có gia đình là yêu không đúng chỗ.
Yêu mà lợi dụng, chiếm hữu, đòi
hỏi người kia làm theo ý mình là yêu không đúng cách.
Khi người thân yêu của mình còn
sống mà lơ là không chăm sóc, đến khi họ mất rồi mới tiếc nuối khóc than
là yêu không đúng thời.
Tình dục
Tình dục tuy có mang chữ tình
nhưng nó liên quan đến sinh lý thuộc về thân, còn được gọi là tính dục,
sẽ được bàn đến ở chương sau (vấn đề của thân).
Thèm khát
Khi ưa, muốn, thích một cái gì
mà không được thỏa mãn thì đâm ra thèm khát. Đối tượng của tình dục là
người khác phái hoặc nhục dục, còn thèm khát thì có đủ loại đối tượng.
Tu hành biết sắc dục là nguy hiểm nên ta không ưa thích sắc đẹp trai gái
nữa, nhưng cái năng lượng ham muốn kia sẽ đi tìm một thứ khác như thích
uống trà, thích ăn tương, thích nghe nhạc, thích quần áo đẹp, thích hút
thuốc, thích sưu tầm đồ sứ, bonsai, v.v... Những thứ này giới luật không
cấm nên ta có thể thỏa mãn, nhờ đó không bị thèm khát dằn vặt. Nhưng nếu
không may những thứ ta thích lại bị cấm đoán như ăn thịt, uống rượu,
v.v... thì chắc chắn sẽ có thèm khát. Thí dụ như chuyện "một sư cô nọ tu
hành lâu năm, một hôm lâm bệnh nặng sắp từ trần, trước khi chết sư cô
xin được uống một muỗng nước mắm nhưng người xung quanh không cho vì sợ
công phu tu hành mấy chục năm của cô sẽ tan mất theo muỗng nước mắm[22]"
và cuối cùng sư cô đã chết trong sự thèm khát. Hoặc một vị sư kia mồ côi
cha mẹ được bỏ vào chùa từ nhỏ, tuy tu hành giữ giới tinh nghiêm, tận
đáy lòng thầy vẫn thèm khát tình mẹ và thầm mơ ước được một người nữ ôm
thầy vào lòng như mẹ ôm con, đơn giản vậy thôi, không có tình ý hay tình
dục gì bậy bạ hết, nhưng giới luật không cho phép điều đó. Thầy đành ôm
ấp niềm mơ ước này cho đến cuối đời và yêu cầu cho gọi một bà già đến
gần để thầy nắm tay trước khi nhắm mắt.
Tình yêu và ái luyến
Ngoài đời người ta thường lầm lẫn
giữa thương yêu (love) và ái luyến (attachment). Ái luyến xuất phát từ
lòng vị kỷ, muốn chiếm làm của mình, không muốn rời mất. Tình yêu nam nữ
thế gian đượm mùi ái luyến và tình dục, yêu nhau chỉ muốn quấn quít bên
nhau, yêu người vì thích sắc đẹp hoặc tình dục. Khi chiếm hữu không được
thì ghét, không thỏa mãn tình dục được thì chán, tình yêu ban đầu biến
đi đâu mất, nhường chỗ lại cho tình hận, tình sầu, tình lụy.
Tình yêu thực sự là mong muốn người
kia được sung sướng hạnh phúc, không đòi hỏi mong chờ, không muốn họ
phải trở thành như ý ta muốn (xem chương Đi tìm hạnh phúc).
Cảm xúc
Trong đạo Phật chúng ta hay dùng
danh từ phiền não để chỉ những tâm sở bất thiện như: tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến, v.v... nhưng trong tiếng Anh và tiếng Pháp người ta
thường dùng danh từ emotions (cảm xúc) để ám chỉ phiền
não. Phiền não (kilesa, klesa) đã được định nghĩa theo kinh điển ở phần
trước (chương Đi tìm phiền não), ở đây tôi bàn theo quan niệm Tây
phương. Làm chủ và điều khiển được cảm xúc là một vấn đề rất quan trọng
đối với mọi người dù Âu hay Á, vì một khi cảm xúc khởi lên thì ta hoàn
toàn bất lực bị nó điều khiển làm khổ mình và người khác.
Đi làm không bình tĩnh nổi nóng
với chủ thì chắc chắn mất việc. Có vợ mà để ý thương cô thư ký thì gia
đình sẽ đổ vỡ. Kinh tế xã hội xuống dốc thì lo sợ thất nghiệp. Lỡ thất
nghiệp thì xấu hổ mắc cở. Kiếm việc hoài không ra thì bất mãn chán đời,
v.v...
Trong đời sống hằng ngày, chúng
ta cứ loanh quanh lẩn quẩn trong thế giới tình cảm và cảm xúc, người thì
giận chồng con, người buồn cha mẹ, người tức bạn bè, v.v...
Cảm xúc (émotion) khác cảm thọ
(sensation) chỗ nào? Khi nghe một bản nhạc hay ta cảm thấy dễ chịu, đó
là một cảm thọ. Nhưng nếu nghe bản nhạc hay mà ta bật khóc hoặc bật cười
thì đây là một cảm xúc vì nó đã kích động một điều gì đó. Cảm xúc là một
cảm thọ bị biến thái bởi tình và tưởng hoặc ký ức tạo ra xúc động mạnh.
Cảm xúc có nhiều loại, có loại tốt cũng như loại xấu, ta không nên từ
chối hay phủ nhận chúng. Một số người tu có khuynh hướng cho rằng tất cả
là không (có), là huyễn, là giả, nên làm ngơ không tìm cách giải quyết,
cứ bỏ mặc hoặc đè nén cảm xúc. Nếu cảm xúc bị đè nén lâu ngày thì sinh
ra nội kết hoặc tệ hơn nữa là sinh ra bệnh tâm thể (psychosomatique). Tu
hành là tìm cách hoá giải những cảm xúc xấu và khai triển cảm xúc tốt.
Cảm xúc xấu (émotions négatives)
gồm có: giận, hờn, kiêu ngạo, ganh tị, lo, sợ, thèm khát, bất mãn, nhút
nhát, mắc cở, mặc cảm tội lỗi, chán nản, v.v...
Cảm xúc tốt (émotions positives)
gồm có: vui, mừng, thương, mến, cởi mở, can đảm, v.v...
Những cảm xúc trên vì không có
hình tướng nên được xếp vào loại tâm sở. Trong Duy Thức Học có nêu ra
những tâm sở thiện và bất thiện. Những cảm xúc xấu có thể được xem là
tâm sở bất thiện, và cảm xúc tốt là tâm sở thiện.
Tại sao tôi phân biệt cảm xúc và
tâm. Tâm giận và cảm xúc giận khác nhau chỗ nào? Khi ta suy tư, nghĩ
tưởng chuyện gì trái ý thì tâm khởi một niệm giận, ở đây mới chớm nở
trên phương diện của Ý, hãy còn thuộc về tâm tưởng, sau đó
cái ý niệm giận kia tiếp tục hiện hành ra phía ngoài Tình
làm ta cảm thấy bực bội khó chịu trong người, tới đây là
phương diện của Tình và tôi gọi đó là cảm xúc,
tức là những cái mà ta cảm nhận hay cảm thấy
được bắt đầu xúc tác, muốn hiện hành và biểu hiện ra ngoài
thân. Khi ta mới bị trái ý thôi thì có thể không ai thấy được, nhưng khi
cảm xúc khởi lên thì người ngoài có thể thấy được. Thí dụ khi ta giận
tức thì mặt đỏ bừng lên, khi sợ thì mặt mày tái mét, chân tay run lẩy
bẩy, khi buồn thì dáng điệu ủ rũ, mặt mày u sầu, v.v... Có những tình
cảm và cảm xúc trùng tên hoặc giống nhau nhưng đó là tùy cường độ, nếu
nhẹ và còn nằm trong tâm ý thì thuộc tình cảm, nếu mạnh và bộc phát ra
ngoài thì thuộc cảm xúc.
Duy Thức Học và A Tỳ Đàm khi nêu
ra những phiền não thường đứng trên phương diện tâm ý và hình như không
quan tâm gì đến tình cảm và cảm xúc. Ngày nay chúng ta thấy rõ là có
những cảm xúc như buồn, lo, sợ, nhút nhát, hồi hộp, chán nản, v.v... mặc
dù không được xem là phiền não nhưng nó cũng làm cho chúng ta đau khổ.
Bởi thế ngày nay khi nói đến hai chữ phiền não chúng ta nên thêm vào
những cảm xúc xấu (émotions négatives).
Nội kết
Nội kết là những sự bất mãn,
không như ý, lâu ngày không có chỗ thoát nên đúc kết lại bên trong.
Khi ta giận một người nào mà
không nói ra được, không trả đũa lại được, không tránh né được thì cái
giận đó âm ỉ trong lòng biến thành nội kết.
Khi lỡ dại làm một điều gì sai
quấy rồi ăn năn hối hận hoài không nguôi, bề ngoài làm bộ như không có
chuyện gì nhưng bên trong niềm ân hận đó cứ theo ám ảnh làm ta không thể
vui sống, đây là một nội kết, một mặc cảm tội lỗi.
Từ nhỏ đến lớn, lúc nào ta cũng
sống bám víu vào một người nào đó, nếu không có ai xung quanh thì sợ
hãi, bơ vơ lạc lõng, bởi thế nên ta phải lấy chồng như bao nhiêu người
khác, dù bị chồng hành hạ, chửi mắng, hất hủi, đánh đập cũng không dám
bỏ vì sợ sống một mình. Nỗi lo sợ bị bỏ rơi, phải sống một mình là một
nội kết.
Nội kết là vết thương lòng hay
niềm đau thầm kín (blessures, wounds), những vết thương này thường xảy
ra hồi ta còn nhỏ vì lúc đó tâm hồn chưa đủ cứng rắn, chưa đủ vốn liếng
để đối phó với cuộc đời đầy khó khăn. Ngoài ra ta còn mang theo nội kết
của nhiều kiếp quá khứ chưa được giải tỏa, chúng nằm sâu trong tiềm
thức, lâu lâu chờ cơ hội nhảy ra làm ta khổ sở, dễ sinh ra những thành
kiến và từ đó ta đúc kết cho mình một chương trình
(program) đối phó với cuộc đời, với người này thì ta có thành kiến này
nên ta sẽ ăn nói, cư xử như vầy, còn với người kia thì ta có thành kiến
như thế kia nên sẽ ăn nói và cư xử một cách khác, v.v... Nếu không hiểu
đạo, không biết cách chuyển hóa thì sẽ tiếp tục tạo thêm nội kết.
Giữ chặt quá khứ
Kèm theo nội kết là bệnh chấp
chặt quá khứ, nhiều người hay mắc phải bệnh "ôm giữ quá khứ" nhất là
những điều bất hạnh, khổ đau, và uất ức. Niềm vui qua mau nhưng niềm đau
nhớ đời. Mỗi khi có dịp gặp nhau nói chuyện, chúng ta thường lôi những
chuyện cũ rích từ năm xửa năm xưa, nhắc đi nhắc lại những chuyện buồn
bực rồi than thở trách móc, người này thế này, người kia thế nọ. Làm như
vậy chúng ta vô tình ôm ấp những niềm đau như giữ của gia bảo, lâu lâu
đem ra ngắm rồi cất đi, để mai mốt có dịp lại đem ra ngắm nữa.
Có những người thông minh hơn,
biết những niềm đau quá khứ giống như thuốc độc nên không dám lôi ra vì
sợ nó làm mình đau nên cố quên hoặc dìm nó xuống tận đáy lòng. Nhưng
không may lâu lâu những hình ảnh này vẫn nhảy ra mà không đợi mời, tiếng
Anh gọi là "flashback", flash là lóe lên, back là trở lui.
Mỗi khi bị flashback thì ta bị rơi trở về quá khứ và sống lại
những cảm xúc, cảm thọ khổ đau mặc dù hiện giờ ta không có gì đáng đau
khổ hết. Trường hợp này tôi gọi là bị "ma quá khứ nhập".
Sau vụ chiến tranh Việt Nam năm 1975, các cựu chiến binh Mỹ trở về nước
thường bị bệnh này tức bị ma (quá khứ) nhập. Trở về Mỹ sống trong hòa
bình, đoàn tụ gia đình, vật chất sung túc nhưng họ rất khổ sở mỗi khi bị
lên cơn flashback, những hình ảnh khổ đau quá khứ trồi lên ụp lấy
họ và đưa họ trở về dĩ vãng kinh hoàng. Người bị ma nhập giống như người
điên vì họ không còn sống trong hiện tại mà sống trong một cảnh giới
khác, một thế giới khác, một thế giới của hình ảnh và tâm tưởng (ảo
tuởng). Chúng ta là những người "bình thường" (normal) nhưng mỗi khi con
ma quá khứ hiện lên nhập vào thì ta cũng chẳng khác gì người điên. Đa số
chúng ta đều bị quá khứ dẫn dắt, ôm ấp, chấp cứng những chuyện đã qua,
quên sống trong hiện tại nên chúng ta thường là người bệnh hơn là người
bình thường, bệnh mà không biết mình bệnh!
Chị Sáu hồi trước sống với một
người chồng rất ích kỷ, ông ta có tánh độc tài hay bắt nạt vợ con. Sau
khi ly dị, chị Sáu lấy được anh Ba là người hiền hòa, dễ mến và rất
thương yêu chị. Nhưng lâu lâu anh Ba vô tình làm một điều gì đó khiến
chị Sáu chợt nhớ lại hoàn cảnh xưa khi còn chung sống với anh Sáu và
bỗng nhiên chị "nhìn" thấy anh Ba chẳng khác gì anh Sáu, cũng giống y
hệt anh Sáu và chị đâm ra buồn rầu chán nản. Khi chị "nhìn" thấy như vậy
tức là chị đã bị flashback, bị con ma quá khứ nhập và đương nhiên
cả ngày hôm đó chị sống trong địa ngục. Chỉ khi nào "con ma quá khứ"
biến đi trả chị về với hiện tại thì chị mới hồi tỉnh nhìn thấy anh Ba là
anh Ba chứ không phải anh Sáu, và biết thưởng thức tình thương của anh
Ba đang dành cho chị.
Chúng ta không sống hạnh phúc
được vì lâu lâu bị ma quá khứ nhập. Tu hành là tập làm sao nhận diện
được con ma quá khứ khi nó hiện ra và mời nó đi chơi chỗ khác, hoặc khi
có flashback thì phải biết hồi tỉnh ngay đừng để nó dẫn mình đi
vào thế giới mộng tưởng hay ác mộng.
-ooOoo-
[15]
Trích Góp Nhặt, Thích Trí Siêu
[16]
Xem Góp Nhặt
[17]
Trích Góp Nhặt.
[18]
"Ceci n'est pas une pomme" bắt nguồn từ bức tranh "Ceci n'est pas
une pipe" của Magritte, họa sĩ người Bỉ.
[19]
Để dễ hiểu trong việc phân tách danh từ nên tôi tạm dùng thêm tiếng
Pháp và Anh.
[20]
Cảm giác và cảm thọ cùng một nghĩa.
[21]
Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tâm Minh Lê Đình Thám
0 Kommentare:
Đăng nhận xét