"Trong
phần dưới đây trước hết chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa của một vài chữ dễ gây ra
hiểu lầm, sau đó là ý nghĩa của từng câu, và sau cùng sẽ tìm hiểu xem Vương Duy đã gửi gấm những gì trong
bài thơ của mình. Thật ra thì trong toàn bài thơ không có chữ nào khúc mắc cả,
ngoại trừ ba chữ sau đây là các từ có thể gây ra sự lầm lẫn..."
Tác giả: Hoang Phong
Khác với văn xuôi là
ngôn ngữ của trí óc, thi phú là ngôn ngữ của con tim. Nếu một bài thơ không biểu
lộ được những xúc cảm của con tim thì nhất định sẽ không phải là một bài thơ đúng
nghĩa của nó, mà chỉ là một bài văn vần. Xúc cảm của con tim thì đôi khi lại quá
kín đáo, vì thế các vần thơ cũng phải thật tinh tế và bén nhạy mới có thể chuyển
tải được các xúc cảm ấy. Thế nhưng nếu một bài thơ càng tinh tế và kín đáo thì lại
càng trở nên khó nắm bắt hơn. Trong những ngày đầu xuân bên tách trà thơm,
chúng ta hãy cùng tìm hiểu về một bài thơ Đường dưới đây của thi hào Vương Duy mang tựa là Điểu Minh Giản:
鳥鳴澗 Điểu minh giản
人閒桂花落, Nhân nhàn quế hoa
lạc,
夜靜春山空。 Dạ tĩnh xuân sơn không.
月出驚山鳥, Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
時鳴春澗中。 Thời minh xuân giản trung.
月出驚山鳥, Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
時鳴春澗中。 Thời minh xuân giản trung.
Dịch nghĩa:
Chim hót
trong khe suối
Người
nhàn [ngắm nhìn] hoa quế rụng,
[Trong] một đêm tĩnh lặng [giữa] một vùng núi xuân vắng ngắt.
Con
trăng hiện ra [khiến] chim trong núi
hoảng hốt,
Vụt
hót [vang] trong khe suối ngày xuân.
Dưới
đây là bài dịch của cụ Ngô Tất Tố
Chim
hót trong khe
Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh.
Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi.
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh.
Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi.
Thi
hào Vương Duy (701-761)
cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều
đại của Đường Huyền Tông (685-762). Nói chung thì thời Đường là thời kỳ hưng thịnh
nhất của nền văn minh Trung Quốc,
tất cả các đường nét đặc thù về văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng của dân tộc Hán đều
được hình thành vào giai đoạn này. Thế nhưng mầm mống của sự suy tàn cũng nẩy sinh
rất sớm ngay trong thời nhà Đường. Sau "biến cố" Dương Quý Phi và loạn
An Lộc Sơn (755-763) nền văn minh Trung Trung quốc suy tàn dần. Xã hội và dân tộc
Hán ngày nay chỉ biết chạy theo những giá trị vật chất và hãnh diện một cách gượng
gạo với ảo giác của một thời xưa vang bóng mà thôi. Chỉ cần nhìn vào lãnh vực
thi phú cũng đủ để nhận thấy là trong số hơn một tỉ rưỡi người Hán ngày nay thử
hỏi có mấy thi nhân có tầm vóc ngang hàng với Vương Duy, Đỗ Phủ hay Lý Bạch,
trong khi dưới các triều đại nhà Đường thì dân số không hơn 50 triệu người (đây
là con số ước tính của các học giả Tây Phương căn cứ vào tổng số "hộ"
và đầu người trung bình trong mỗi "hộ", ghi chép trong các sử liệu hành
chánh vào thời Đường)?
Bài
thơ Điểu Minh Giản trên đây của Vương Duy thuộc thể loại ngũ
ngôn tuyệt cú, một thể thơ thật ngắn và cô đọng, gồm vỏn vẹn hai mươi chữ. Đã có
rất nhiều bài dịch tiếng Việt, bài trên đây của cụ Ngô Tất Tố chỉ là một trong
các bài xưa nhất và cũng chỉ mang tính cách tiêu biểu mà thôi. Thật vậy, bài thơ
của Vương Duy thoạt
nhìn khá đơn giản và "dễ hiểu" nên cũng rất dễ dịch. Thế nhưng phía
sau sự đơn giản ấy còn tàng ẩn một điều
gì khác nữa hay chăng? Nếu chỉ căn cứ vào ý nghĩa từ chương thì bài thơ chỉ là
một bài tả cảnh với một vài hình ảnh khá rời rạc: hoa quế rụng, đêm tĩnh mịch,
núi vắng, trăng mọc, chim kêu... Nếu chú ý thật kỹ thì chúng ta sẽ nhận thấy ngay
một vài chi tiết thiếu "mạch lạc" hay "phi lý" nào đó. Nếu
giải đoán được các sự phi lý và thiếu mạch lạc ấy biết đâu rằng đây cũng là
cách giúp chúng ta đến gần hơn với người thi nhân.
Trong
phần dưới đây trước hết chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa của một vài chữ dễ gây ra
hiểu lầm, sau đó là ý nghĩa của từng câu, và sau cùng sẽ tìm hiểu xem Vương Duy đã gửi gấm những gì trong
bài thơ của mình. Thật ra thì trong toàn bài thơ không có chữ nào khúc mắc cả,
ngoại trừ ba chữ sau đây là các từ có thể gây ra sự lầm lẫn:
H.1-3: Cây quế khâu Cinamomom sp. và hoa
H.4: Cây hoa quế (Osmanthus fragrans) đang trổ hoa trong sân
H.5: Hoa Ngân Quế
H.6: Hoa Kim Quế
Các
bản dịch tiếng Việt dường như đều hiểu quế hoa trong bài thơ Điểu Minh Giản là hoa của cây quế khâu. Hầu
hết các bản tiếng Pháp và tiếng Anh cũng thế, cũng đều dịch là quế khâu
(cannelier / cinamon tree), chỉ có một bản tiếng Anh duy nhất tìm thấy trong "Bộ Sưu Tập các Bài Thơ trên Thế
Giới" (World Poetry's Archive)
dịch là hoa Osmanthus, tức là hoa mộc
quế (xem phụ lục).
-
chữ thứ ba là chữ thời trong câu 4. Trong
tiếng Hán chữ thời mang rất nhiều nghĩa:
thời giờ (giờ, khắc), thời điểm, thời kỳ, lúc thời thế này lúc thời thế kia,
hợp thời, đúng lúc, đúng vào thời điểm, thường thường là như thế, đồng thời, đương
thời, bèn, bỗng nhiên, cơ hội, đúng dịp, v.v... Trong bản dịch của cụ Ngô Tất Tố
chữ thời được dịch là thủng thẳng,
chim kêu thủng thẳng thì chẳng có nghĩa gì cả. Trong số hai bản dịch trong phần
phụ lục dưới đây, thì bản tiếng Pháp dịch là "par instant" có nghĩa
là thỉnh thoảng, trong khi đó thì bản tiếng Anh lại dịch là "don’t stop",
tức có nghĩa là không ngừng (một vài bản dịch tiếng Anh khác dịch là
"constant" có nghĩa là liên tục). Sự "lúng túng" này cho thấy
các dịch giả không nắm vững được ý của Vương Duy nêu lên trong câu 4.
Đến
đây chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của từng câu một:
- câu thứ nhất có hai vế: người nhàn và hoa quế rụng. Hai vế liên hệ với nhau như thế nào? Tất cả các bản dịch
tiếng Anh, tiếng Pháp và cả tiếng Việt được tham khảo đều dịch hai vế này riêng
rẻ và độc lập với nhau, và tất nhiên là không nêu lên được một sự mạch lạc nào
cả. Một câu thơ năm chữ quá ngắn, do đó phải nuốt chữ, vậy chữ nào bị nuốt khiến
cho chủ từ là người nhàn và túc từ là
hoa quế rụng trở nên rời rạc? Chúng
ta có thể hình dung ra một chữ nào đó có thể nối liền hai vế trên đây, chẳng hạn
như chữ ngắm nhìn, và câu 1 trên đây
sẽ trở thành: người nhàn ngắm nhìn hoa
quế rụng. Người thi nhân nhàn nhã ngồi một mình ngắm nhìn những cánh hoa quế
tàn úa rơi rụng trong đêm, và biết đâu cũng là để hồi tưởng lại những kỷ niệm
xa xưa nào đó.
-
câu 2 cho biết là người thi nhân ngắm nhìn hoa quế rụng trong một bối cảnh như
thế nào: một đêm tĩnh mịch trong một vùng rừng núi hoang vắng giữa mùa xuân.
-
câu 3: trăng ló khiến chim trong núi hoảng hốt. Câu này khá khó hiểu vì không còn
là một câu tả cảnh nữa mà để nói lên tâm trạng của người thi nhân: một sự
"hoảng hốt" nào đó. Dù trăng có vằng vặc hay mờ ảo thì chim vẫn ngủ im
trong đêm, sự "hoảng hốt" của chim chỉ là sự tưởng tượng của người
thi nhân đang chìm đắm trong đêm bỗng giật mình khi nghe tiếng chim hót. Trong
cảnh tịch mịch đó chỉ có con người là hoảng hốt mà thôi khi tự hỏi tại sao chim
lại hót trong đêm? Hai chữ nguyệt xuất
có thể hiểu là trăng mới ló sau rặng núi, tuy nhiên cũng có thể hiểu là trăng đã
tà, đã xuống thấp khi trời gần sáng. Thế nhưng cũng có thể hiểu chữ nguyệt xuất trong bài thơ là những tia sáng
ban mai đã bắt đầu le lói sau rặng núi.
-
câu 4: Chim bỗng hót vang trong khe suối ngày xuân. Trời hừng đông chim bắt đầu
hót, thế nhưng người thi nhân lại cứ nghĩ rằng chim "hoảng hốt" vì ánh
trăng chiếu sáng khe suối và chim cất tiếng hót trong đêm. Các chữ thời minh (thời là lúc, minh là chim
hót) có nghĩa là đúng lúc chim bắt đầu hót vào buổi sáng, không có
nghĩa là chim thỉnh thoảng hay liên tục hót như thường thấy trong các bản
dịch. Thật vậy hầu hết các bản dịch - dù bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Việt
- đều là các bài tả cảnh. Thiết nghĩ các bài dịch mang tính cách miêu tả thiếu
mạch lạc đại loại như thế sẽ không sao phản ảnh được giá trị của một bài thơ đã
vượt thời gian hơn mười thế kỷ!
Tóm
lại ý nghĩa của toàn bài là người thi sĩ ngắm nhìn những cánh hoa quế rơi rụng
trong đêm đã sống lại với một thời quá khứ nào đó. Đắm mình trong những kỷ niệm
xa xưa, người thi nhân bỗng thoát ra ngoài thực tại và không ý thức được là trời
đã sáng, chim đã thức dậy và hót vang trong khe suối cạnh nhà. Vậy chúng ta hãy
thử đề nghị một bản tạm dịch như sau:
Chim hót trong khe suối
Nhàn nhã ngắm nhìn hoa quế rụng,
Tĩnh mịch đêm
xuân trong núi vắng.
Trăng ló đâu
non chim hoảng hốt,
[Ngỡ
sáng] trong khe vội hót vang.
Hoang
Phong dịch (01.01.14)
Các chữ trăng
ló và ngỡ sáng phản ảnh sự lầm lẫn
trong tâm trí người thi nhân khi cho rằng ánh trăng tỏa sáng khiến cho chim giật
mình và hót vang, và không ngờ là trời đã sáng.
Trong
số các bài thơ Đường cũng có một bài khá tương tự với bài thơ trên đây của Vương
Duy, đó là bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế. Vậy chúng ta hãy thử
phân tích bài thơ này và so sánh với bài thơ của Vương Duy xem sao. Bài thơ của
Trương Kế như sau:
楓橋夜泊 Phong Kiều Dạ Bạc
月落烏啼霜滿天, Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
江楓漁火對愁眠。 Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
姑蘇城外寒山寺, Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
夜半鐘聲到客船。 Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
江楓漁火對愁眠。 Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
姑蘇城外寒山寺, Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
夜半鐘聲到客船。 Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch
nghĩa:
Đêm ghé thuyền bên chiếc Cầu Phong
Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời,
Trên sông [ghé thuyền] ở bến Cầu
Phong, thao thức bên ngọn đèn của người dân chài (một loại đèn bão tránh gió).
Từ ngôi chùa Hàn San nơi ngoại thành
Cô Tô,
Lúc nửa đêm vọng lại với người khách
trên thuyền những tiếng chuông ngân.
Sau
đây cũng xin mạn phép nêu lên dưới đây hai bài dịch của hai cụ Tàn Đà và Trần
Trọng Kim, là hai trong số các bài dịch xưa nhất:
Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bãi, sầu vương giấc
hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn
San.
Tản
Đà dịch (khoảng năm 1937 hay 1938)
Đêm khuya thuyền đậu ở bến Phong Kiều
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi,
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co.
Con thuyền đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn
San.
Trần
Trọng Kim dịch (1944)
Hai
bài dịch trên đây của cụ Tản Đà và cụ Kim cũng như các bài dịch khác mới hơn
sau này, kể cả các bài dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh đã được tham khảo, dường
như chỉ nhắm vào mục đích "tả cảnh", không thấy nhấn mạnh đến nỗi niềm
ray rứt của người thi nhân, cũng không giải thích gì về sự mâu thuẫn giữa câu 1
(trời đã sáng) và câu 4 (tiếng chuông chùa nửa đêm). Đấy là chưa nói đến nhiều
chữ không sát nghĩa hoặc vụng về, chẳng hạn như trong hai bài dịch của cụ Tản Đà
và cụ Kim thì tựa cho biết là bến Phong Kiểu (bến sông cạnh chiếc Cầu Phong),
thế nhưng trong câu thơ dịch thì lại gọi là cây
bãi (hàng cây trên bãi sông?). Trong bản dịch của cụ Tản Đà, hai chữ sầu miên (giấc ngủ buồn nói lên sự trằn
trọc và đau buồn của người thi nhân) thì lại dịch là giấc hồ, tức là giấc mơ của Trang Tử thấy mình hóa bướm, khi thức
giấc thì tự hỏi không biết mình hóa ra bướm hay bướm hóa ra mình, một cách vắn
tắt thì đây là câu chuyện nêu lên một khái niệm "triết học", không liên
hệ gì đến tâm trạng của người thi nhân trong khoang thuyền. Trong bản dịch của
cụ Kim thì hai chữ sầu miên lại trở
thành nằm co, quả thật hai chữ này không
phù hợp tí nào với nội dung của bài thơ.
Tựa
của bài thơ là Phong Kiều Dạ Bạc, phong
(érable / maple) là một loại cây có lá đỏ rực vào mùa thu (lá trên quốc kỳ của
Gia Nã Đại), kiều là chiếc cầu, dạ bạc là đêm ghé bến. Tựa của bài thơ cũng
đã tạo ra cả một bối cảnh không gian và thời gian phù hợp với nội dung của toàn
bài thơ. Hơn nữa trong tiếng Hán chữ bạc
cũng mang nhiều nghĩa khác nhau: ghé bến,
cập bến, trôi nổi, trôi dạt nơi đất
khách quê người, khinh bạc, đạm bạc, không màng công danh lợi lộc. Do đó chữ dạ bạc có nghĩa là đỗ thuyền
trong đêm và cũng có nghĩa là một đêm
khinh bạc, gợi lên một cách kín đáo tâm
trạng của người thi nhân. Do đó cũng có thể hiểu tựa của bài thơ là "Sự khinh bạc lợi danh trong một đêm
ghé vào bến Phong Kiều".
Tóm
lại, đại ý của bài thơ là trời đã sáng, trăng đã lặn, quạ đã kêu, thế nhưng sương
vẫn bao phủ đầy trời, tưởng chừng như vẫn còn trong đêm tối. Trên con thuyền
neo cạnh chiếc cầu Phong, người thi nhân mang nặng một mối sầu trong lòng và thao
thức bên ngọn đèn leo lét. Trong khi đó ở ngôi chùa Hàn San nơi ngoại thành Cô
Tô, các nhà sư đã thức giấc và gióng chuông trong thời kinh buổi sáng. Tiếng
chuông vọng đến bờ sông khiến người lữ khách "bàng hoàng" và tự hỏi "tại sao chùa lại gióng chuông vào nửa đêm như thế này?"
Sương mù dầy đặc bao phủ cảnh vật hay là sự u uẩn trong lòng đã khiến người lữ
khách đánh mất cả ý niệm của thời gian?
Đêm ghé bến Phong Kiều
Tiếng quạ, trăng tà, sương phủ kín,
Bên
đèn thao thức một niềm đau.
Cô Tô, vọng lại Hàn
San tự,
Nửa
đêm thuyền vẳng tiếng chuông ngân.
Hoang
Phong dịch (Tô Châu, 05.09.01)
Trương
Kế (730?-780?) sinh sau Vương
Duy khoảng 30 năm, và ông đã sáng tác bài thơ này vào năm 750
với tâm trạng của một "thư sinh" trong lứa tuổi hai mươi khi mới thi
trượt. Dù là mang cùng "một ý" hay "mượn ý" của bài thơ Điều Minh Giản của Vương Duy đi nữa, thế
nhưng bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương
Kế rõ ràng là phong phú và nhiều màu sắc hơn. Câu 1 cho thấy trời đã sáng, trăng
đã lặn, quạ đã kêu, thế nhưng sương còn dầy đặc tương tự như trời vẫn còn trong
đêm. Câu 2 nói lên niềm đau của một thư sinh thi trượt. Câu 3 gợi lên một khung
cảnh thật buồn: tiếng chuông chùa xa xa từ chùa Hàn San vọng lại bến sông khiến
người thư sinh càng thêm chua xót. Câu 4 nói lên sự cảm nhận sai lầm của người thư
sinh ngỡ rằng chùa gióng chuông trong đêm. Trương Kế đã mượn sự cảm nhận sai lầm
ấy để nói lên sự hoang mang và đau buồn trong lòng mình.
Bối
cảnh trong bài Điểu Minh Giản của Vương
Duy là một vùng rừng núi trong một đêm thanh vắng, người thi sĩ yên lặng ngắm
nhìn những cánh hoa quế héo tàn, đắm mình vào những kỷ niệm xa xưa, và không còn
ý thức được là trời đã sáng, chim đã thức và hót vang trong khe suối ngày xuân.
Bối cảnh trong bài Phong Kiều Dạ Bạc của
Trương Kế trái lại đã nêu lên những hình ảnh thật mạnh: sương mù dầy đặc trên bến
sông, tiếng quạ kêu, tiếng chuông chùa văng vẳng vọng lại từ xa..., và nhất là đã
nêu lên các địa danh thật chính xác mang tính cách hoài cổ, gợi lên những sự tích
xa xưa: thành Cô Tô với nàng Tây Thi, chùa Hàn San với hai anh em kết nghĩa là Hàn
San và Thập Đắc. Chuyện kể rằng Hàn San được cha mẹ đi hỏi vợ cho mình, thế nhưng
sau đó đã khám phá ra rằng cô dâu lại là người yêu của em mình là Thập Đắc. Hàn
San không muốn làm buồn lòng em nên bỏ ra đi biệt tích. Thập Đắc hay tin cũng ra
đi tìm anh và đã gặp được anh tá túc trong một ngôi chùa nhỏ. Hai anh em gặp
nhau, mừng mừng tủi tủi và cùng xin xuất gia trong ngôi chùa này. Người đời sau
gọi ngôi chùa ấy là Hàn San tự.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Đăng nhận xét