"Khi chúng ta ngồi trong
Thiền-đường, cứ nhìn bề ngoài thì giống như chúng ta đang
dụng công tu hành, song thật ra thì chỉ ngồi nghĩ ngợi, vọng
tưởng lăng xăng, chẳng dụng công tu hành chút nào cả. Có
vị nghĩ rằng: "Bây giờ là thời đại khoa học, phải
dùng phương pháp khoa học để khai ngộ"; nhưng lại nghĩ lui
nghĩ tới mãi, chẳng chút khoa học gì cả, đó chính là
"kẻ ngốc nói chuyện mộng mỵ..."
Khai Thị của Hoà Thượng Tuyên Hoá
Trước thời Oai Âm Vương Phật ra
đời, ai ai cũng có thể khai ngộ mà chẳng cần người nào
ấn chứng cả. Từ thời Oai Âm Vương Phật trở về sau,
những ai tự giác khai ngộ đều nhất định phải có Tổ-sư
hoặc bậc Thiện-tri-thức (đã khai ngộ) ấn khả, chứng
minh thì mới đúng phép. Cũng như ở Pháp-hội Lăng-Nghiêm,
có hai mươi lăm vị Thánh-nhân tường thuật sự chứng đắc
viên-thông của họ và thỉnh Ðức Phật Thích-Ca ấn chứng.
Bây giờ tôi kể cho quý vị nghe
một công án về sự ấn chứng.
Ðời Ðường (nước Trung Hoa), có
Ðại-sư Vĩnh Gia. Ngài sinh ở huyện Vĩnh-gia, tỉnh Triết-giang.
Bởi vì cả đời Ngài không rời huyện Vĩnh-gia nên người
đương thời gọi Ngài là Ðại-sư Vĩnh Gia. Sau khi xuất gia,
Ngài nghiên cứu giáo lý Thiên-Thai Tông, thích tu
Thiền-quán; nhờ xem Kinh Duy Ma Cật mà hoát nhiên đại
ngộ. Về sau, khi gặp Thiền-sư Huyền Sách (đệ tử của Lục
Tổ Huệ Năng), ngài Vĩnh Gia bèn thuật lại tự sự.
Thiền-sư Huyền Sách khuyên ngài nên đến Tào-khê tham bái
Lục Tổ để thỉnh cầu ấn chứng; nếu không, chẳng nhờ
thầy mà ngộ, thì là hàng "ngoại đạo Thiên-nhiên."
Khi ngài Vĩnh Gia tới Chùa Nam Hoa
ở Tào-khê, gặp đúng lúc Lục Tổ đang tọa Thiền. Ngài
rất cống cao ngã mạn, tới bên Thiền-sàng của Lục Tổ,
cũng chẳng vái chào, chẳng đảnh lễ, cầm cây tích-trượng
đi nhiễu quanh Thiền-sàng ba vòng, rồi đứng chống
tích-trượng.
Lục Tổ mới hỏi: "Một vị
Sa-môn cần hội đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Một
hạnh cũng không khiếm khuyết thì được gọi là Sa-môn (dịch
là Cần Tức-cần tu Giới Ðịnh Huệ, tức diệt Tham Sân Si-siêng
tu Giới Ðịnh Huệ, dứt bỏ Tham Sân Si). Ðại-đức từ nơi
nào tới, sinh lòng đại ngã mạn như thế?"
Ngài Vĩnh Gia đáp: "Chuyện lớn
là sinh tử, vô thường quá chóng vánh."
Lục Tổ hỏi: "Sao không thể
hội cái vô sinh? Sao chẳng liễu ngộ thứ chẳng chóng
vánh?"
Ngài Vĩnh Gia đáp: "Thể hội
tức là vô sinh. Liễu ngộ vốn không chóng vánh."
Lục Tổ dạy rằng: "Ông thật
hiểu ý nghĩa của vô sinh vậy."
Ngài Vĩnh Gia hỏi vặn: "Vô sinh
mà còn có ý hay sao?"
Lục Tổ trả lời rằng: "Không
có ý thì ai đang phân biệt?"
Ngài Vĩnh Gia đáp: "Phân biệt
cũng chẳng phải là ý!"
Lục Tổ dạy: "Như thị! Như
thị!"
Rồi ngài Vĩnh Gia được ấn khả
chứng minh, trở thành Pháp-tự của Lục Tổ.
Sau khi được Lục Tổ ấn chứng,
ngài Vĩnh Gia muốn lập tức trở về Chùa Khai Nguyên ở
Vĩnh-gia. Song Lục Tổ lưu ngài ở lại một đêm, hôm sau mới
xuống núi về quê nhà. Bởi vì chỉ trong một đêm mà giác
ngộ được chân-đế của Phật-pháp nên người đương
thời gọi ngài là "Nhất Túc Giác Hòa Thượng" (vị
Sư giác ngộ nội trong một đêm). Về sau ngài cực lực
tuyên dương pháp Ðốn-ngộ của Thiền-môn, viết tác phẩm Chứng
Ðạo Ca thuyết minh cảnh giới đốn-ngộ. Ðó là một tác
phẩm bất hủ, đã trở thành bản văn phải học trong Phật
môn.
Khi chúng ta ngồi trong
Thiền-đường, cứ nhìn bề ngoài thì giống như chúng ta đang
dụng công tu hành, song thật ra thì chỉ ngồi nghĩ ngợi, vọng
tưởng lăng xăng, chẳng dụng công tu hành chút nào cả. Có
vị nghĩ rằng: "Bây giờ là thời đại khoa học, phải
dùng phương pháp khoa học để khai ngộ"; nhưng lại nghĩ lui
nghĩ tới mãi, chẳng chút khoa học gì cả, đó chính là
"kẻ ngốc nói chuyện mộng mỵ."
Kẻ nào khai ngộ rồi thì đều phải
thắng được mọi khảo nghiệm, nếu không y sẽ mắc tội đại
vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián. Phàm lệ, ai tự
rêu rao về mình: "Tôi đã khai ngộ rồi! Tôi đã chứng
quả rồi!" thì đều phải chịu quả báo (đọa địa ngục).
Hy vọng quý vị đều hết sức cẩn thận, không tùy tiện nói
càn, kẻo về sau phải chịu quả báo!
Ở đây quý vị dậy rất sớm,
ngủ thật trễ. Vì sao lại tu cực khổ như vậy? Bởi vì thêm
một phút tham Thiền là thêm một cơ hội giác ngộ. Hiện tại
quý vị ngồi ở Thiền-đường tập trung tinh thần, dụng công
tham cứu câu "Niệm Phật là ai?", tuy chẳng phải là
không có vị chuyên tâm dụng công, song những vị chân chính
muốn giác ngộ, đắc được thọ dụng, thì ít lắm. Phần
đông người ta không biết rõ việc tham Thiền ra sao, cũng
không nhiệt tâm; họ chỉ tu cho có lệ, làm cho qua ngày. Với
thái độ đả Thiền-thất như vậy thì dù có đả thất tới
"tận vị lai kiếp" cũng chẳng thể khai ngộ được.
Tôi hy vọng mỗi quốc gia đều có nhiều vị giác ngộ, để
họ giúp ích cho tiền đồ Phật-giáo mai sau.
Trong lúc đả Thiền-thất, quý vị
chớ nói chuyện, đừng nghĩ ngợi lăng xăng. Quý vị hãy
chân thật dụng công thì mới có cảm ứng, mới khai trí
huệ. Có trí huệ thì mới không điên đảo. Không điên
đảo thì mới có thể giáo hóa chúng sinh. Nếu chính mình
không hiểu rành mạch chân lý thì lấy tư cách gì để dạy
kẻ khác? Ðây chẳng phải là "kẻ đui dắt người
mù" sao? Thật là vô cùng nguy hiểm!
Việc tham Thiền thì cũng tương tự
như bác nông phu gieo hạt ngũ cốc vào mùa xuân; đến mùa
hè thì cày cấy, tưới nước, nhổ cỏ, bón phân; qua mùa
thu mới gặt được mùa tốt và khi mùa đông tới thì bác
mới được no ấm. Hy vọng suốt một năm của bác nông phu
là được đủ ăn đủ mặc. Tham Thiền cũng vậy. Quý vị
cần cẩn thận giữ chặt tâm niệm, lúc nào cũng quản thúc
chính mình. Trong Thiền-đường, lúc đi mình có dụng công
chăng? Lúc ngồi mình có dụng công chăng? Nói tóm lại, đi,
đứng, nằm, ngồi, đều phải dụng công tu hành. Quý vị cảm
thấy dụng công làm sao thích hợp, thì cứ theo đó mà dụng
công, chẳng có gì hạn chế. Ví dụ, quý vị cảm thấy tham
thoại đầu chẳng tương ưng, thì có thể niệm Phật, hoặc tu
chỉ-quán. Chỉ cần phương pháp ấy thích hợp, tương ưng với
quý vị thì quý vị sẽ có cơ thành tựu.
Vô luận là dụng công ở pháp
môn nào, tâm phải chuyên nhất, đừng có vọng tưởng. Khi
dụng công tới cực độ thì sẽ có tin tức tốt đẹp. Nếu
có vọng tưởng, suy nghĩ lăng xăng hoài, thì dụng công ở
pháp môn nào cũng chẳng có tương ưng. Phàm nếu là người
chân chính dụng công, thì đi chẳng biết là đi, ngồi cũng
chẳng biết là ngồi-đi hay ngồi đều không để ý thì làm
sao khởi vọng tưởng được chứ? Quý vị chỉ cần biết
"Niệm Phật là ai? Niệm Phật là ai?" Cứ một câu
này, niệm niệm chớ để gián đoạn, luôn luôn tham cứu
trong lòng. Bấy giờ, dù khát quý vị chẳng biết khát, đói
cũng chẳng biết đói; nóng cũng không biết là nóng, lạnh
cũng chẳng hay là lạnh. Vì sao không biết? Vì tâm chuyên
nhất vậy. Lưng đau cũng quên đau, chân nhức cũng không
biết nhức, mọi ý niệm đều tiêu vong cả. Chỉ còn có một
niệm: "Ai niệm Phật?" Luôn đề khởi nó, rồi buông
bỏ. Buông bỏ xong lại đề khởi. Lúc nào cũng miên mật,
dụng công liên tục, không gián đoạn. Dụng công tới chỗ
cực độ, thì bất kỳ một va chạm ngẫu nhiên nào cũng có
thể làm quý vị hốt nhiên khai ngộ.
Tại sao quý vị không hốt nhiên khai
ngộ? Vì quý vị chưa chuyên tâm trì chí, chưa hiểu đạo lý minh
tâm kiến tánh, không biết cảnh giới phản bổn hoàn
nguyên, cũng chẳng biết cố hương ở nơi đâu nên lưu
lạc nơi đất khách như tên ăn mày.
Cuối cùng tôi nói với quý vị
câu này: Hãy tham cứu câu "Niệm Phật là ai?" cho
tới chỗ "núi cùng nước cạn, nghi hết đường";
bấy giờ, quý vị sẽ thấy cảnh giới "bóng liễu, hoa xinh
hiện một thôn."
(Thiền
thất 12/1980)
0 Kommentare:
Đăng nhận xét