"Khi tôi được thành Phật,
tôi nguyện sẽ ở trong cõi nước tệ ác, núi đồi gò
đống, sành sỏi gai góc, chúng sinh ở trong đó, đầy
đủ phiền não, ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu hành
thành Phật ở trong nước ấy, để làm lợi ích cho chúng
sinh, khiến cho chúng sinh đoạn trừ tất cả khổ, được
tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn sót
một chúng sinh nào..."
Quyển Thứ Nhất
01. PHẨM TỰA THỨ NHẤT
Dịch
giả: Thích Chính Tiến -
Thích Quảng Độ
PL. 2506 - 1962
PL. 2506 - 1962
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá,
trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu,
hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát
đã xong, phạm hạnh đã lập, không còn phải chịu thân
sinh tử hậu hữu tâm được tự tại, cũng như đại định.
Các vị ấy tên là: Ma Ha Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Kiều Trần
Như, Ly Việt Đa Ha Đa, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử,
Tất Lăng Già Bà Ta, Xá Lợi Phất, Ma Ha Ca Chuyên
Duyên, A Nan, La Hầu La v.v… là những người mà đại
chúng đều đã quen biết. Bồ Tát Ma Ha Tát, có ba vạn
tám ngàn người, đều là những bậc đã lâu vun trồng
gốc đức; đã từng ở nơi vô lượng trăm nghìn muôn ức
chư Phật, thường tu phạm hạnh thành tựu đại nguyện,
thông suốt tất cả trăm nghìn thiền định, đà la ni
môn. Thường đem lòng đại bi, tùy thuận làm lợi ích
cho tất cả chúng sinh, tiếp nối làm cho ngôi Tam Bảo
thường được hưng thịnh, khiến không đoạn tuyệt, hay
dựng cờ pháp, vì các chúng sinh, làm người bạn không
mời mà tự đến được bờ đại trí, tiếng tăm đồn khắp.
Tên các bậc ấy là: Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế
Chí Bồ Tát, Thường Tinh Tiến Bồ Tát, Diệu Đức Bồ
Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Diệu Quang Bồ Tát, Phổ Bình Bồ
Tát, Đức Thủ Bồ Tát, Tu Xưng Vương Bồ Tát, Hương
Tượng Bồ Tát, Đại Hương Tượng Bồ Tát, Trì Thế Bồ
Tát, Việt Tam Giới Bồ Tát, Thường Bi Bồ Tát, Bảo
Chưởng Bồ Tát, Thế Quang Anh Bồ Tát, Diệu Xí Diệu Bồ
Tát, Bảo Nguyệt Bồ Tát, Đại Lực Bồ Tát, Vô Lượng Tuệ
Bồ Tát, Bạt Đà Hòa Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Sư Tử
Tát Bồ Tát, Sư Tử Phất Tấn Bồ Tát, Mãn Nguyện Bồ
Tát, Bảo Tích Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử
v.v… cùng với trăm nghìn quyến thuộc.
Lại có vô lượng trăm nghìn các Thiên tử ở Dục Giới,
cùng với các quyến thuộc, đều mang hương hoa vi
diệu, và trổi âm nhạc cõi trời, để cúng dàng Phật.
Tất cả các Chư Thiên, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La,
Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân, Phi Nhân
v.v… cùng với trăm nghìn quyến thuộc đều lễ sát
xuống chân Phật. Rồi lui ngồi một phía.
Bấy giờ đại chúng đều vây quanh đức Như Lai, cúng
dàng cung kính, tôn trọng khen ngợi Ngài.
Khi ấy, nhân có Tôn giả A Nan, nhờ thần lực của
Phật, một buổi sáng nọ, Tôn giả vào thành Vương Xá,
theo thứ tự khất thực. Khi ấy ở trong thành có một
người con Bà la môn, rất hiếu dưỡng cha mẹ, người
con đó lại gặp lúc gia cảnh suy sút, gia tài khánh
kiệt, nên phải dắt mẹ già, cũng theo thứ tự xin ăn
để nuôi mẹ. Nếu được thức ăn ngon, hoa quả tươi
tốt, liền đem dâng cho mẹ, còn khi được những thức
ăn không ngon, hay hoa quả khô héo thì mình ăn.
Ngài A Nan thấy vậy, lòng sinh vui mừng, và khen
ngợi người con ấy rằng:
- Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện nam tử, cúng dàng
cha mẹ, rất là hiếm có, thực khó ai sánh kịp.
Lúc đó, có một kẻ Phạm Chí, đồ đảng của
bọn Lục sư, người ấy rất thông biện; thấu suốt cả
bốn bộ sách Vệ đà, biết được thời tiết, số mạng, bói
toán, biết xem tướng tốt xấu, âm dương biến đổi,
đoán trước được nhân tâm của mọi người, và cũng là
đạo sư của đại chúng (đồ đảng của bọn Lục sư), được
nhiều người tôn kính, vì cầu lợi dưỡng, nên thường
chấp trước tà luận, hủy diệt chính pháp, thường mang
lòng ghen ghét, hủy báng Phật, Pháp, Chúng Tăng.
Kẻ Phạm Chí ấy bảo Tôn giả A Nan rằng:
- Thầy của người là Cồ Đàm, và những người trong dòng
họ Thích, tự nói là hay, là tốt, có những công đức
lớn lao, chẳng qua cũng chỉ có danh, mà không có
thực. Thầy Cồ Đàm của ngươi mới thật là bạc phúc,
nếu không như vậy, thì tại sao mẹ của ông vừa mới
sinh ra ông được bảy ngày đã chết, để ông phải côi
cút, như thế chẳng phải là người bạc phúc là gì? Cho
đến khi khôn lớn, lại vượt thành xuất gia, làm cho
Vua cha phải khổ não, lòng sinh ra buồn rầu, mê mẩn,
ngã ngất ra đất, phải dùng nước lạnh rảy vào mặt,
bảy ngày mới tỉnh, rồi cất tiếng kêu gào khóc lóc mà
nói rằng:
- Con ơi! Nước này là nước của con, ta chỉ có một
mình con là chỗ nương cậy, làm sao ngày nay con lại
nỡ bỏ ta trốn đi, vào ở nơi hang sâu núi thẳm.
Thầy Cồ Đàm của ngươi thực là người bội bạc, chẳng
biết ân nghĩa, mới đành lòng dứt bỏ ra đi như thế!
Cho đến phụ vương, vì tạo lập cung điện, cưới nàng
Cù Di làm vợ cho Cồ Đàm, nhưng ông cũng chẳng làm
theo bổn phận của vợ chồng, khiến cho nàng phải sầu
khổ, cho nên biết Cồ Đàm là người bất hiếu.
Tôn giả A Nan nghe nói như thế rồi, trong
lòng sinh ra thẹn hổ, khất thực xong xuôi, trở về
đến chỗ Phật, đầu mặt lễ sát xuống chân Phật, rồi
lui về ngồi một phía, chấp tay bạch Phật rằng:
- Lạy đức Thế Tôn! Trong Phật pháp, có sự hiếu dưỡng
cha mẹ không?
Phật dạy:
- A Nan! Ai bảo ngươi, khiến ngươi hỏi ta điều ấy,
chư Thiên thần chăng? Nhân, Phi nhân chăng? Hay là
ngươi tự đem trí lực của ngươi mà hỏi Như Lai chăng?
Tôn giả A Nan bạch Phật rằng:
- Lạy đức Thế Tôn! Không phải chư Thiên, Long, Quỷ,
thần, Nhân, Phi nhân hiện ra bảo con, mà do vừa rồi,
lúc con đi khất thực, ở giữa đường gặp đồ đảng Lục
sư, là Tát Gia Ni Kiền Tử, đem lời mạ nhục.
Tôn giả A Nan đến trước Phật thuật hết những sự tình
như trên.
Bấy giờ, đức Thế Tôn, vui vẻ mỉm cười, từ
trên trán của Ngài phóng ra hào quang năm sắc, chiếu
sáng qua Thế giới phương Đông, vô lượng trăm ngàn
vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Thắng Thượng,
đức Phật ở thế giới đó hiệu là Hỷ Vương, Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỷ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước đó tên là
Nghiêm Thịnh, đất đai bằng phẳng, ngọc lưu ly làm
đất, giây vàng giăng ở bên đường, có hàng cây bảy
báu, cao suốt một đường tên bắn hoa quả nhánh lá,
thứ tự trang nghiêm, gió hiu hiu thổi, phát ra những
thứ tiếng rất nhiệm mầu, chúng sinh thích nghe,
không bao giờ chán, khắp nơi đều có suối mát ao tắm,
nước ao trong sạch, cát vàng rải khắp mặt đất, có
nước tám công đức, đầy dẫy trong ao, bốn bên bờ ao,
có các thứ hoa thơm nhiệm mầu như: Hoa ba đầu ma,
hoa phân đà lợi, hoa bạt sư ca, hoa có đủ mọi màu
sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, lớn như bánh xe, che phủ
trên bờ ao, trong ao có các loài chim khác nhau, hòa
hợp ca hót, phát ra những giọng tiếng nhiệm mầu, rất
đáng ưa thích; có thuyền bảy báu, cũng ở trong ao
đó, để cho các chúng sinh, tự tại du hý. Ở nơi mỗi
khoảng rừng cây kia, có bày tòa sư tử, cao một do
tuần, cũng dùng bảy báu, trau dồi sửa sang, lại dùng
thiên y, trải trên tòa sư tử, đốt các thứ hương báu
ở cõi trời, và rải các hoa báu, khắp trên mặt đất.
Đức Hỷ Vương Như Lai, ngồi kết già phu trên tòa ấy.
Các Bồ Tát ở nước kia, có vô lượng ức
nghìn, trước sau vây quanh Đức Hỷ Vương Như Lai, rồi
lui ngồi về một phía, chấp tay cung kính hướng về
Đức Như Lai, đồng thanh nói rằng:
- Kinh xin Đức Thế Tôn! Từ bi lân mẫn, chỉ bảo cho lũ
chúng con biết: Vì nhân duyên gì, mà có hào quang
sáng suốt soi chiếu như thế, hào quang ấy lại có đủ
các mầu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, sắc tướng rực rỡ,
thực khó ví dụ, từ phương Tây soi tới, soi cả nơi
đại chúng đây, người nào được gặp ánh hào quang ấy,
tâm ý đều được an lạc. Kính xin Đức Thế Tôn chỉ
dạy, đoạn trừ mối nghi ngờ cho chúng con.
Phật dạy:
- Các Thiện nam tử! Các ông nên nghe cho kỹ! Và để
tâm suy nghĩ cho khéo, ta nay sẽ vì các ông, phân
biệt giải nói: Ở về phương Tây, cách đây, vô lượng
nghìn muôn chư Phật thế giới, có một thế giới tên Sa
Bà, trong nước đó có đức Phật, hiệu là Thích Ca Mâu
Ni Phật, Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hành
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian giải, Vô Thuợng Sỷ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, có đại
chúng vây quanh, nay Phật muốn vì các đại chúng, nói
Kinh ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN, vì Phật muốn làm
lợi ích cho tất cả chúng sinh; vì muốn nhổ tên độc
tà nghi cho tất cả chúng sinh; vì muốn khiến cho
những vị Bồ Tát, mới phát tâm, kiên cố Bồ đề không
bị thoái chuyển; vì muốn tất cả Thanh Văn, Bích Chi
Phật, chứng được cứu kính Nhất Phật Thặng; vì muốn
cho các Đại Bồ Tát chóng thành Phật Bồ Đề, báo đáp
ân Phật; vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh nhớ
nghĩ trọng ân; vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh,
vượt khỏi bể khổ; vì muốn khiến cho tất cả chúng
sinh, hiếu dưỡng phụ mẫu, nên Phật phóng ra ánh sáng
hào quang ấy.
Bấy giờ trong đại chúng, có mười ngàn vị
Bồ Tát, mỗi mỗi vị Bồ Tát, đều là bậc chỉ đạo của
đại chúng, liền từ tòa ngồi đứng dậy để hở vai áo
bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, chấp tay bạch
Phật rằng:
- Kính xin Đức Thế Tôn, dùng sức thần gia hộ, khiến
cho lũ chúng con, được đến thế giới Sa Bà, thân cận
cúng dàng, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, và muốn nghe
kinh điển rất nhiệm mầu: “ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO
ÂN”.
Bấy giờ Phật bảo các Bồ Tát rằng:
- Thiện nam tử! Ngươi đến thế giới Sa Bà, nếu thấy
Phật Thích Ca Mâu Ni, phải sinh lòng cúng dàng cung
kính, nghĩ tưởng khó gặp, bởi cớ sao? Vì Phật Thích
Ca Như Lai đã từng ở trong vô lượng trăm nghìn vạn
ức A tăng kỳ kiếp, làm những việc hạnh khổ khó làm,
phát đại bi nguyện: “Khi tôi được thành Phật, sẽ ở
nơi cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai
góc, chúng sinh ở trong cõi đó, đủ mọi thứ phiền
não, ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu hành thành Phật
ở nơi đó, để làm những việc lợi ích, đoạn trừ tất cả
khổ não cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh được
tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn
sót”. Bản nguyện của Phật là như thế, các ông nay
đến chỗ Phật Thích Ca cũng như đến chỗ tôi, ở chỗ
Phật Thích Ca Mâu Ni cũng như ở chỗ tôi không khác.
Các vị Bồ Tát chúng cùng đáp rằng:
- Chúng con xin y theo như lời của Đức Thế Tôn đã
giáo sắc.
Mỗi mỗi vị Bồ Tát đều đem vô lượng trăm nghìn vạn ức
các chúng Bồ Tát để làm quyến thuộc, trước sau vây
quanh, đều đi đến thế giới Sa Bà, những chỗ quốc độ
Bồ Tát đi qua, đều phát khởi sáu thứ rung động bóng
sáng lớn soi khắp, các vị thiên thần ở trên hư không
rải các thứ hoa như: Hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà
la, phóng ra ánh sáng lớn, vận dụng thần túc rung
động các thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Lại
có vô lượng trăm nghìn vạn thứ thiên nhạc, ở trên hư
không, không trỗi tự kêu. Các vị Bồ Tát ấy đi đến
núi Kỳ Xà Quật, tới chỗ Đức Thích Ca Như Lai, đầu
mặt lễ xuống chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng,
rồi lui ngồi về một phía.
Bấy giờ Đức Như Lai, lại phóng một luồng hào quang
chiếu thẳng về phương Nam, qua tám mươi vạn ức cõi
nước của chư Phật, có thế giới tên là Quang Đức,
trong thế giới ấy có đức Phật hiệu là Tu Di Tướng,
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước tên
là Thiện Tịnh, đất đai bằng phẳng, lưu ly làm đất,
giây vàng giăng bên vệ đường, có hàng cây bảy báu,
cao suốt một đường tên bắn, hoa quả nhánh lá, thứ tự
trang nghiêm, gió hiu hiu thổi, phát ra những thứ
tiếng rất nhiệm mầu, chúng sinh thích nghe, không
bao giờ chán; khắp nơi đều có suối chảy, ao tắm,
nước ao trong sạch, cát vàng rải khắp mặt đất, nước
tám công đức, đầy dẫy trong đó; bốn bên bờ ao có các
thứ hoa, thơm tho nhiệm mầu như: Hoa ba đầu ma, hoa
phân đà lợi, hoa bạt sư ca, có đủ các thứ màu sắc:
Xanh, vàng, đỏ trắng, lớn như bánh xe, che phủ trên
bờ ao; có những loài chim khác nhau, hòa hợp ca hót,
phát ra những giọng tiếng nhiệm mầu, rất đáng ưa
thích; có thuyền bảy báu, cũng ở trong đó, để cho
các chúng sinh, tự tại du hý. Ở nơi mỗi khoảng rừng
cây, đều bày tòa sư tử, cao một do tuần, cũng dùng
bảy báu, để trau dồi sửa sang, lại dùng thiên y,
trải ở trên tòa; đốt mọi thứ hương báu, và rải hoa
báu của các cõi trời khắp trên mặt đất. Đức Tu Di
Tướng Như Lai, ngồi kết già phu ở trên tòa đó. Các
vị Bồ Tát ở nước kia, có vô lượng ức nghìn, trước
sau vây quanh Phật, rồi lui về một phía, chấp tay
hướng về Đức Như Lai, đồng thanh nói rằng:
- Kinh xin Đức Thế Tôn từ bi lân mẫn, nói cho chúng
con được biết, vì nhân duyên gì, có ánh sáng hào
quang ấy, lại đủ các màu sắc xanh, vàng đỏ, trắng,
những sắc tướng rực rỡ đó, thực là khó ví dụ, từ
phương Bắc soi tới, soi cả đại chúng đây, kinh xin
Đức Thế Tôn, dạy bảo, đoạn trừ mối ngờ cho chúng
con.
Phật dạy:
- Các Thiện nam tử! Các ông nên nghe cho kỹ! Và để
tâm suy nghĩ cho khéo, ta nay sẽ vì các ông, phân
biệt giải nói: Ở về phương Bắc, cách đây, vô lượng
trăm nghìn muôn chư Phật thế giới, có một thế giới
tên Sa Bà, trong nước đó có Đức Phật, hiệu là Thích
Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian giải, Vô Thượng Sỷ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, có
đại chúng vây quanh, nay Phật muốn vì các đại chúng,
nói Kinh ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN; vì muốn làm
lợi ích cho tất cả chúng sinh; vì muốn nhổ tên độc
tà nghi cho tất cả chúng sinh; vì muốn khiến cho
những vị Bồ Tát mới phát tâm, kiên cố Bồ đề không bị
thoái chuyển; vì muốn cho tất cả Thanh Văn, Bích Chi
Phật, được rốt ráo Nhất Thặng đạo: Vì các vị đại Bồ
Tát chóng thành Phật Bồ Đề, báo đáp ân Phật; vì muốn
cho tất cả chúng sinh nhớ nghĩ trọng ân; vì muốn cho
chúng sinh vượt khỏi bể khổ; vì muốn cho chúng sinh
hiếu dưỡng cha mẹ, cho nên Phật phóng ra ánh sáng
ấy.
Bấy giờ trong đại chúng, có mười nghìn vị
Bồ Tát, mỗi mỗi vị Bồ Tát, đều là bậc chỉ đạo của
đại chúng, liền từ tòa ngồi đứng dậy để hở vai áo
bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, chấp tay bạch
Phật rằng:
- Kính xin Đức Thế Tôn, dùng sức thần gia hộ, khiến
cho lũ chúng con, được đến thế giới Sa Bà, thân cận
cúng dàng, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, và muốn được
nghe kinh điển rất nhiệm mầu: ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT
BÁO ÂN.
Bấy giờ Đức Phật Tu Di Tướng bảo các Bồ Tát rằng:
-Các ông đến thế giới Sa Bà, nếu thấy Phật Thích Ca,
nên phải sinh tâm cung kính cúng dàng, nghĩ tưởng
khó gặp, vì cớ sao vậy? -Vì Phật Thích Ca Như Lai đã
từng ở trong vô lượng trăm nghìn vạn ức kiếp số a
tăng kỳ, thường làm những hạnh khổ khó làm, và phát
đại bi nguyện: “Khi tôi được thành Phật, sẽ ở trong
cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai góc,
trong đó chúng sinh, đủ mọi thứ phiền não, ngũ
nghịch, thập ác, tôi ở trong ấy thành Phật, để làm
lợi ích cho chúng sinh, khiến đoạn trừ tất cả khổ,
được tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn
sót một chúng sinh nào”. Bản nguyện của Phật là như
thế, các ông nay đến chỗ Phật cũng như đến chỗ tôi
không khác.
Các chúng Bồ Tát, đồng thanh nói rằng:
- Chúng con xin theo lời của Đức Thế Tôn đã giáo sắc.
Mỗi mỗi vị Bồ Tát, đều đem vô lượng nghìn vạn ức các
chúng Bồ Tát làm quyến thuộc, trước sau vây quanh,
đi đến thế giới Sa Bà, các vị thiên thần ở trên hư
không, rải các thứ hoa như: Hoa mạn đà la, hoa ma ha
mạn đà la, phóng ra ánh sáng lớn, dùng thần túc làm
rung động các thế giới nhiều như cát sông Hằng. Lại
có vô lượng trăm nghìn vạn thứ âm nhạc của các cõi
trời ở trên hư không, không trỗi tự kêu.
Các vị Bồ Tát ấy, đi đến chỗ Đức Như Lai, đầu mặt lễ
sát chân Phật, nhiễu Phật ba vòng, rồi lui về một
phía.
Bấy giờ Đức Như Lai lại phóng ra ánh sáng lớn, soi
thẳng về phương Tây, qua vô lượng trăm nghìn vạn ức
cõi nước của chư Phật, có thế giới tên là Tịnh Trụ,
Phật đó hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Quang Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, nước tên là Diệu Hỷ, cõi đất
bằng phẳng, lưu ly làm đất, hoàng kim làm giây, để
giăng bên đường, có hàng cây bảy báu, cao suốt một
đường tên bắn, hoa quả nhánh lá, thứ lớp trang
nghiêm, gió hiu hiu thổi, phát ra tiếng rất nhiệm
mầu, chúng sinh thích nghe, không bao giờ chán, chốn
chốn đều có suối chảy ao tắm, nước ao trong sạch,
cát vàng rải khắp mặt đất, nước tám công đức, đầy
dẫy trong ao, bốn bên bờ ao, có các thứ hoa, thơm
tho mầu nhiệm như: Hoa ba đầu ma, hoa phân đà lợi,
hoa bạt sư ca, những thứ hoa ấy có đủ các màu sắc
xanh, vàng đỏ, trắng, lớn như bánh xe, che phủ trên
bờ ao, dưới ao có các loài chim khác nhau, hòa hợp,
ca hót, phát ra giọng tiếng nhiệm mầu, rất đáng ưa
mến, có thuyền bảy báu, cũng ở trong đó, để cho các
chúng sinh tự tại du hý. Ở nơi khoảng cây kia, có
bày tòa sư tử, cao một do tuần, cũng lấy bảy báu, để
trau dồi sửa sang, lại lấy thiên y cõi trời, trải ở
trên tòa đốt hương báu và rải các hoa báu cõi trời,
đầy dẫy khắp trên mặt đất. Đức Nhật Nguyện Đăng
Quang Như Lai, ngồi kết già phu trên toà sư tử. Bồ
Tát ở nước kia, có vô lượng ức nghìn, trước sau vây
quanh, rồi lui về một phía, chấp tay cung kính, đối
trước Đức Như Lai, đồng thanh nói rằng:
- Kính xin Đức Thế Tôn, từ bi lân mẫn, nói cho chúng
con biết vì nhân duyên gì có ánh sáng ấy, lại có cả
màu sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, rất là rực rỡ, khó
có thể ví dụ được. Ánh sáng ấy từ phương Đông chiếu
qua, soi sáng cả đại chúng đây, nếu người nào gặp
được ánh sáng ấy, tâm ý đều được an vui.
Kính xin Đức Thế Tôn đoạn trừ mối ngờ ấy cho con.
Phật dạy:
- Các Thiện nam tử! Các ông nên nghe cho kỹ, nhớ nghĩ
cho khéo, tôi sẽ vì các ông, phân biệt giải nói: Từ
phương Đông cách đây vô lượng trăm nghìn chư Phật
thế giới, có thế giới tên là Sa Bà, trong thế giới
đó có Đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, đại chúng vây quanh, nay
Phật muốn vì các đại chúng nói Kinh ĐẠI PHƯƠNG TIỆN
PHẬT BÁO ÂN, là vì muốn lợi ích cho tất cả chúng
sinh; vì muốn nhổ tên độc tà nghi cho tất cả chúng
sinh; vì muốn khiến cho những vị Bồ Tát mới phát tâm
kiên cố Bồ Đề, không bị thoái chuyển; vì muốn khiến
cho tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, được rốt ráo
Nhất Thặng; vì muốn các đại Bồ Tát chóng thành Bồ
Đề, báo đáp ơn Phật; vì muốn tất cả chúng sinh, nhớ
nghĩ ơn sâu nặng; vì muốn khiến cho chúng sinh, hiếu
dưỡng cha mẹ, vì nhân duyên như thế, cho nên Phật
mới phóng ra ánh sáng ấy.
Bấy giờ trong đại chúng, có mười nghìn vị Bồ Tát mỗi
mỗi vị Bồ Tát đều là bậc thầy chỉ đạo của đại chúng,
liền từ tòa ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải,
gối bên phải quỳ sát đất, chấp tay bạch rằng:
- Xin Đức Thế Tôn, đem sức thần gia hộ, khiến cho lũ
chúng con được đến thế giới Sa Bà, để thân cận cúng
dàng Đức Thích Ca Như Lai, và muốn nghe kinh điển
nhiệm mầu “ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN”.
Bấy giờ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Quang, bảo các vị
Bồ Tát rằng: “Các Thiện nam tử! Các ông đến thế giới
Sa Bà nếu thấy Đức Phật Thích Ca, nên sinh lòng cung
kính, cúng dàng, nghĩ tưởng khó gặp vì cớ sao?- Vì
Đức Thích Ca Như lai đã từng ở trong vô lượng trăm
nghìn vạn ức kiếp số a tăng kỳ, hay làm những hạnh
khổ khó làm, phát nguyện đại bi: “Khi tôi thành
Phật, tôi sẽ ở ngay trong cõi nước tệ ác, núi đồi gò
đống, sành sỏi gai góc, chúng sinh, đủ cả phiền não,
ngũ nghịch, thập ác, tôi ở trong đó, tu hành thành
Phật, để làm lợi ích cho chúng sinh, khiến đoạn trừ
tất cả khổ, được tất cả vui, thành tựu pháp thân,
hết không còn sót một chúng sinh nào”. Bản nguyện
của Phật là như thế, các ông nay đến chỗ Phật Thích
Ca, cũng như ở chỗ ta vậy.
Các chúng Bồ Tát đồng thanh nói rằng:
- Chúng con xin theo như lời của Đức Thế Tôn đã giáo
sắc.
Mỗi mỗi vị Bồ Tát, đều đem vô luợng trăm nghìn vạn
ức các chúng Bồ Tát làm quyến thuộc trước sau vây
quanh, đi đến thế giới Sa Bà, những quốc độ Bồ Tát
đi qua đều phát khởi sáu thứ chấn động, ánh sáng lớn
soi khắp, các vị thiên thần ở trên hư không rải các
thứ hoa như: Hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la,
phóng ra ánh sáng lớn, dùng thần túc làm rung động
các thế giới nhiều như cát sông Hằng. Lại có vô
lượng trăm nghìn vạn thứ âm nhạc của các cõi trời, ở
trên hư không, không trổi tự kêu. Các vị Bồ Tát ấy,
đi đến núi Kỳ Xà Quật, đến chỗ Đức Như Lai, đầu mặt
lễ sát chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi lui
về một phía.
Bấy giờ, Đức Thích Ca Như lai, lại phóng ra ánh sáng
năm màu, soi về phương Bắc, qua năm trăm vạn ức na
do tha chư Phật thế giới, có thế giới tên là Tự Tại
Xưng Vương, trong đó có Đức Phật, hiệu là Hồng Liên
Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn,
nước tên là Ly Cấu, đất đai bằng Phẳng, lưu ly làm
đất, vàng ròng làm giây, để giăng bên đường, có hàng
cây bảy báu, cao suốt một đường tên bắn, hoa quả
nhành lá, thứ lớp trang nghiêm, gió hiư hiu thổi,
phát ra tiếng mầu nhiệm, chúng sinh thích nghe,
không bao giờ chán; chốn chốn đều có suối chảy, ao
tắm, ao đó trong sạch, cát vàng rải khắp mặt đất,
nước tám công đức, đầy dẫy trong ao, bốn bên bờ ao,
có các thứ hoa thơm tho mầu nhiệm như: Hoa ba đầu
ma, hoa phân đà lợi, hoa bạt sư ca, hoa có đủ các
màu sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, to lớn như bánh xe,
che rợp trên bờ ao, trong ao nước kia, có các loài
chim khác nhau, hòa hợp ca hót, phát ra giọng tiếng
mầu nhiệm, rất đáng ưa mến, có thuyền bảy báu, cũng
ở trong ao đó, để cho các chúng sinh tự tại du hý.
Ở những khoảng rừng cây kia, đều bày tòa sư tử, cao
một do tuần, cũng dùng bảy báu, trau dồi sửa sang,
lại lấy thiên y, trải trên tòa đó, đốt hương báu, và
rải các hoa báu ở cõi trời, khắp trên mặt đất. Đức
Hồng Liên Hoa Quang Như Lai, ngồi kiết già phu trên
tòa sư tử, các vị Bồ Tát ở nước đó, nhiều vô lượng
ức nghìn, trước sau vây quanh, rồi lui về một phía,
chấp tay cung kính, đối trước Đức Như Lai, đồng
thanh nói rằng:
- Kính xin Đức Thế Tôn, từ bi lân mẫn, nói cho chúng
con được biết vì nhân duyên gì mà có ánh sáng ấy,
lại có đủ các màu sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, sắc
tướng rực rỡ, khó có thể ví dụ được, ánh sáng ấy từ
phía Nam chiếu qua, soi cả đại chúng đây, nếu ai
được gặp ánh sáng ấy, tâm ý đều được yên vui, kính
xin Đức Thế Tôn, đoạn trừ mối nghi ngờ cho chúng
con.
Phật dạy:
- Các Thiện nam tử! Nghe cho kỹ, nhớ nghĩ cho khéo,
tôi sẽ vì các ông, phân biệt giải nói: Phương Nam
cách đây vô lượng trăm nghìn chư Phật thế giới, có
thế giới tên là Sa Bà, trong nước đó có Đức Phật,
hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn, đại chúng vây quanh, Phật muốn vì các
đại chúng, nói Kinh ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN, vì
muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, vì muốn khiến
cho các vị Bồ Tát mới phát tâm kiên cố Bồ Đề, không
thoái chuyển; vì muốn khiến cho tất cả Thanh Văn,
Bích Chi Phật, được rốt ráo Nhất thặng đạo; vì muốn
cho các vị đại Bồ Tát, chóng thành Bồ Đề, báo đáp ơn
Phật; vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, nhớ nghĩ
đến ân đức sâu nặng; vì muốn khiến cho chúng sinh
vượt qua bể khổ; vì muốn khiến cho chúng sinh hiếu
dưỡng cha mẹ, vì nhân duyên như thế, cho nên Phật
phóng ra ánh sáng ấy.
Bấy giờ trong đại chúng, có mười nghìn vị Bồ Tát,
mỗi mỗi vị Bồ Tát ấy đều là bậc thầy chỉ đạo của đại
chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên
phải, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay bạch rằng:
- Kính xin Đức Thế Tôn, đem sức thần gia hộ, khiến
cho lũ chúng con, được đến thế giới Sa Bà, thân cận
cúng dàng, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, và nghe kinh
điển nhiệm mầu ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN.
Bấy giờ Đức Phật Hồng Liên Hoa Quang bảo các Bồ Tát
rằng:
- Các Thiện nam tử! Các ông đến thế giới Sa Bà, nếu
thấy Đức Phật Thích Ca nên sinh tâm cúng dàng cung
kính, nghĩ tưởng khó gặp, vì cớ sao? Vì Đức Thích Ca
Như Lai đã từng ở trong vô lượng trăm nghìn vạn ức
số kiếp A tăng kỳ, hay làm những việc khổ hạnh khó
làm, phát đại bi nguyện: “Khi tôi được thành Phật,
tôi nguyện sẽ ở trong cõi nước tệ ác, núi đồi gò
đống, sành sỏi gai góc, chúng sinh ở trong đó, đầy
đủ phiền não, ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu hành
thành Phật ở trong nước ấy, để làm lợi ích cho chúng
sinh, khiến cho chúng sinh đoạn trừ tất cả khổ, được
tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn sót
một chúng sinh nào”. Bản nguyện của Phật là như
thế, các ông nay đến chỗ Phật cũng như ở chỗ tôi
vậy.
Các chúng Bồ Tát đồng thanh nói rằng:
- Chúng con xin theo như lời của Đức Thế Tôn đã giáo
sắc.
Mỗi mỗi vị Bồ Tát đều đem vô lượng trăm nghìn vạn ức,
các chúng Bồ Tát làm quyến thuộc, trước sau vây
quanh, đi đến thế giới Sa Bà, những quốc độ Bồ Tát
đi qua, đều phát khởi sáu thứ chấn động, ánh sáng
lớn soi khắp, thiên thần ở trên hư không, rải các
thứ hoa như: Hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la,
phóng ra ánh sáng lớn, dùng thần túc làm rung động
thế giới nhiều như cát sông Hằng. Lại có vô lượng
trăm nghìn vạn ức âm nhạc cõi trời, ở trên hư không,
không trổi tự kêu. Các vị Bồ Tát ấy đi đến núi Kỳ
Xà Quật, đến chỗ Phật Thích Ca Như Lai, đầu mặt lễ
sát chân Phật, nhiễu Phật ba vòng, rồi ngồi lui một
phía. Cho đến phương Đông nam, phương Tây nam,
phương Đông bắc, phương Tây bắc, phương Thượng,
phương Hạ, các chúng đại Bồ Tát Ma Ha Tát, trong các
cõi nước của các Đức Như Lai ở mười phương, đều cùng
với bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc đều đi đến chỗ
Đức Thích Ca Như Lai, cúng dàng cung kính, tôn trọng
khen ngợi, đồng thanh, nói lên trăm nghìn bài kệ,
khen ngợi Phật, rồi lui về ngồi một phía.
Khi ấy, thế giới Sa Bà, biến thành thanh tịnh, không
có các rừng rậm, các núi lớn, nhỏ, sông, ngòi, ao hồ,
suối, khe, mương, hố. Chúng sinh ở trong đó, nhân
ánh sáng ấy, được coi thấy Phật, vui mừng chấp tay,
đầu mặt lễ kính, lòng sinh luyến mộ, chăm chú không
chớp mắt.
Bấy giờ Đức Thế Tôn, liền thu nhiếp ánh sáng soi
chiếu ở khắp mười phương, nhiễu quanh thân bảy vòng,
rồi trở lại vào nơi đỉnh môn của Ngài.
Tôn giả A Nan, quan sát tâm chúng, ai cũng đều nghi
ngờ, Tôn giả vì muốn nêu rõ phương tiện mật hạnh của
Như Lai, muốn mở mắt trí tuệ cho tất cả chúng sinh
đời mai sau, vượt qua bể ái, đến bờ bên kia, vĩnh
viễn an lạc, và muốn khiến cho chúng sinh nhớ nghĩ
đến ân sâu nặng của cha mẹ, sư trưởng nên từ tòa
đứng dậy, tề chỉnh y phục, để hở vai áo bên phải, hồ
quỳ chấp tay bạch Phật rằng:
- Lạy Đức Thế Tôn, A Nan từ khi hầu hạ Phật đến nay,
chưa từng thấy Phật mỉm cười bao giờ, nay đây Phật
mỉm cười ắt phải có ý gì? Xin Phật chỉ dạy, để đoạn
trừ mối nghi ngờ cho đại chúng.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Đăng nhận xét